Sách giáo khoa, bài tập, giáo viên, từ vựng Khối 6-7: Mở
Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021
Thứ Tư, 2 tháng 6, 2021
Đề thi các khối 6 - 9 của Bình Dương
Qúy vị dùng MÁY TÍNH cài Windows 10 trở lên để tải về sẽ không bị trục trặc.
Năm học | Lớp 6 | Lớp 7 | Lớp 8 | Lớp 9 | Tuyển sinh 10 |
|||||||||||||
HK 1 | HK 2 | HK 1 | HK 2 | HK 1 | HK 2 | HK 1 | HK 2 | |||||||||||
Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | |
24-25 | ⇓ | X | ||||||||||||||||
23-24 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
22-23 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
21-22 | X | X | ⇓ | ⇓ | X | X | ⇓ | ⇓ | X | X | ⇓ | ⇓ | X | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
20-21 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
19-20 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ |
18-19 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
17-18 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X |
16-17 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X |
15-16 | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | ⇓ | X | X |
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019
Đề thi lớp 5-6-7-8-9 tăng cường của Bình Dương
Qúy vị dùng MÁY TÍNH cài Windows 10 trở lên để tải về sẽ không bị trục trặc.
Năm học |
Lớp 5 |
Lớp 6 | Lớp 7 | Lớp 8 | Lớp 9 | ||||||||||||
Học kỳ 1 | Học kỳ 2 | Học kỳ 1 | Học kỳ 2 | Học kỳ 1 | Học kỳ 2 | Học kỳ 1 | Học kỳ 2 | ||||||||||
Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | Đề | Nghe | ||
24-25 | ⇓ | X | |||||||||||||||
23-24 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
22-23 | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ | ⇓ |
21-22 | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | X | X | ⇓ | X |
20-21 | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | |||||||||
19-20 | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | |||||||||
18-19 | ⇓ | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | X | ⇓ | |||||||||
17-18 | ⇓ | ||||||||||||||||
16-17 | ⇓ | ||||||||||||||||
15-16 | ⇓ | ||||||||||||||||
14-15 | ⇓ | ||||||||||||||||
13-14 | ⇓ |
Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019
Sách giáo viên (text) và sách bài tập (image) thí điểm lớp 6-12 theo Hoàng Văn Vân
Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019
Chủ Nhật, 26 tháng 6, 2016
Một số file mp3 nghe tiếng Anh
Lớp | Student book | Workbook |
1 | Mở | Mở |
2 | Mở | Mở |
3 | Mở | Mở |
4 | Mở | Mở |
5 | Mở | Mở |
SÁCH GIÁO KHOA GLOBAL SUCCESS
Lớp | Student book |
6 | Mở |
7 | Mở |
8 | Mở |
SÁCH GIÁO KHOA THÍ ĐIỂM CỦA HOÀNG VĂN VÂN - Cả năm
Lớp 6 | Lớp 7 | Lớp 8 | Lớp 9
SÁCH GIÁO KHOA CŨ - từng học kỳ
Lớp 6 HK1 | Lớp 6 HK2 | Lớp 7 HK1 | Lớp 7 HK2 | Lớp 8 HK1 | Lớp 8 HK2 | Lớp 9 HK1 | Lớp 9 HK2
SOLUTIONS
Solution 6 | Solution 7 | Solution 8 | Solution 9 | Solution 10
TACTICS FOR LISTENING
Basic Pack A | Basic Pack B | Developing pack A | Developing pack B | Expanding pack A | Expanding pack B
Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015
ƠN GỌI TU HUYNH
Hùng biện
Software
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DẪN NHẬP
Chương I:
1.1. Đôi Điều Về “Anh Em”
1.2. Tu Huynh Trong Dòng Lịch Sử Giáo Hội[8]
Chương II:
2.1. Tu Huynh Là Tu Sĩ Giáo Dân
2.1.1. Khái Niệm Chung
2.1.2.
Tu Huynh Cắm Rễ Trong Bí Tích Thánh Tẩy
2.1.3.
Tham Dự Vào Chức Vụ Tư Tế, Ngôn Sứ Và Vương Giả
2.1.4.
Ơn Gọi Làm Tông Đồ
2.2. Đời Sống Chung Huynh Đệ
2.3. Lễ Vật Hoàn Hảo Dâng Lên Thiên Chúa Thông Qua Các Lời Khuyên
Phúc Âm
2.4. Chứng Tá Ngôn Sứ Cho Nước Trời
2.5. Phục Vụ Trong Tương Quan Với Giáo Hội Và Tha Nhân
2.5.1.
Tu Huynh Và Giáo Hội
2.5.2. Tu Huynh Là Anh Em Của Mọi
Người
2.6. Căn Tính Của Tu Huynh
Chương III:
3.1. Phải
Chăng Các Tu Huynh Có Đời Sống Nội Tâm Chưa Sâu Sắc?
3.2. Công Cuộc Cứu Rỗi Trần Thế Và Nguy Cơ
Trần Tục Hoá
3.2.1. Công Cuộc Cứu Rỗi Trần Thế
3.2.2. Nguy Cơ Trần Tục Hoá
3.3. Canh Tân Để Thích
Nghi
3.4. Khuynh Hướng Giáo
Sĩ Hoá
3.5. Tu Huynh Trong Nhãn Quan Trần Thế
3.5.1. Bản Thân Các Tu Huynh
3.5.2. Tu Huynh Và Giáo Sĩ
3.5.3. Tu Huynh
Và Giáo Dân
3.5.4. Tu Huynh Và Các Giới Tu Sĩ Khác
3.6. Cởi Mở Tấm
Lòng Với Giáo Dân
Chương IV:
4.1. Bản Thân Các Tu Huynh
4.2. Đối Thoại Với Giáo Dân
4.3. Đối Thoại Với Hàng Giáo Sĩ
4.4. Đối Thoại Với Giáo Hội
4.5. Một Vài Ý Tưởng Về Đào Tạo Và Bổ Nhiệm Tu
Huynh
4.6. Với Các Bạn Trẻ
KẾT LUẬN
THƯ MỤC
THAM KHẢO
Software
ƠN GỌI TU HUYNH
Luận Văn Tốt Nghiệp
BỘ MÔN THẦN HỌC ĐỜI TU
Sinh viên thực hiện: Vincent Đặng Minh Thành, Dòng Kitô
Vua
Giáo sư hướng dẫn: François Trần Văn Ánh, FSC
Tháng 07 năm 2006
NHẬN XÉT CỦA GIÁO SƯ HƯỚNG DẪN
LỜI TRI ÂN
Con xin chân thành cám ơn sư huynh François Trần Văn
Ánh, FSC cùng các giáo sư học viện thần học Lasan đã tận tâm hướng dẫn con hoàn
thành luận văn này.
Trong tâm tình đó, con cũng xin chân thành cảm ơn các
anh em cùng lớp và tất cả những ai đã giúp tìm kiếm tài liệu và chỉ dẫn thêm
cho con .
MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CD
|
Chirstus Dominus
|
Sắc Lệnh Về Chức Vụ Giám Mục
|
CID
|
Codex Iuris Canonici
|
Bộ Giáo Luật
|
CL
|
Christifideles Laici
|
Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân
|
GLCG
|
Catéchisme de L’Église Catholique
|
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
|
LG
|
Lumen Gentium
|
Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội
|
PC
|
Pefectae Caritatis
|
Sắc lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Tu
|
RD
|
Redemptionis Donum
|
Tông Thư Hồng Ân Cứu Chuộc
|
VC
|
Vita Consecrata
|
Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến
|
DẪN NHẬP
Đời sống tu dòng giáo dân cho người nam cũng như người
nữ, tự bản chất là một bậc sống trọn vẹn, tuân giữ các lời khuyên của Tin Mừng,
đời sống này rất ích lợi cho nhiệm vụ mục vụ của Giáo hội trong việc giáo dục
giới trẻ, chăm sóc những người đau yếu, và những hình thức tông đồ khác.[1]
Thế nhưng ơn gọi Tu Huynh không phải lúc nào cũng được
hiểu một cách đúng đắn, kể cả những người gần gũi chúng ta nhất.[2]
Trong thực tế, đời sống tu dòng giáo dân nam đã không luôn luôn được hiểu đúng
trong Giáo hội, nơi các cấp lãnh đạo cũng như nơi tín hữu; đặc biệt các Giáo hội
ở Á châu và Việt Nam có những đánh giá rất lệch lạc. Còn chính các nam tu sĩ
giáo dân, khi có cơ hội, chỉ bận tâm để bào chữa đời sống mình hơn là đào sâu nội
dung.[3]
Đời tu dòng tu huynh chưa trở nên đối tượng khảo sát đặc biệt, ít là trên lãnh
vực thần học.
Cách chung, chúng ta có thể thấy ba dạng tu huynh
trong Giáo Hội: sư huynh trong các dòng tu giáo dân, các thầy trợ sĩ trong các
dòng tu hỗn hợp – vừa có giáo sĩ vừa có giáo dân – và các đan sĩ trong các dòng
cổ. Bài viết này chỉ xin đề cập đến hai dạng tu huynh đầu tiên, là những thành
phần mà người viết có nhiều điều kiện sống cùng với họ.
Dựa trên lịch sử và thần học đời tu, một số
bài viết của anh em tu huynh cũng như những ghi nhận từ cuộc sống thực tế của một
số anh em trong đó có bản thân người viết, bài viết này, trước hết mong giúp tu huynh đào sâu căn
tính của mình để biết quí chuộng ơn gọi mình là một đoàn sủng sống Tin Mừng, sống
thanh thản, hiên ngang, không mặc cảm, vững lòng hơn với ơn gọi của mình. Tiếp
theo là đóng góp một chút cho giáo hội một cái nhìn đúng đắn hơn về ơn gọi tu
huynh, xoá bỏ dần não trạng phân biệt đối xử, khôi phục lại mối tương giao anh
em như thời các tông đồ, để từ đó có những sách lược thích hợp. Sau đó, đề tài
này muốn đánh tan những thành kiến, những so sánh lệch lạc giữa tu huynh và tu
sĩ giáo sĩ của người đời, soi sáng họ về giá trị thực của bậc sống này trong
Giáo Hội. Và cuối cùng, người viết mong muốn cổ võ các bạn trẻ quan tâm dấn thân
nhiều hơn theo hướng này.
Chương I:
TU HUYNH LÀ AI?
1.1. Đôi Điều Về “Anh Em”
Những người con trai của cùng một đôi
vợ chồng được gọi là anh em với nhau[4].
Những người bạn nam giới rất thân, thỉnh thoảng người ta đem
so sánh họ như người anh em: Anh ta giống như một người anh em của tôi. Đôi khi
những người nam gọi nhau là anh em khi họ không biết tên nhau nhưng cảm thấy người
kia thân thuộc với mình.
Trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu dùng
từ anh em để chỉ ra sự bình đẳng giữa mọi người: “Nếu khi anh sắp dâng lễ
vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với
anh...”[5]
Phêrô hỏi: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?”[6]
Các chữ anh chị em được sử dụng cách chung ở những ban bệ trong Giáo Hội khi
kêu gọi các thành viên trong một hội đoàn: “Anh chị em của tôi trong Đức Kitô.”
Hình ảnh người Samaritanô nhân lành là một minh hoạ về người anh em. Cách thức
Chúa Giêsu cư xử với những người nam và người nữ, bất kể họ là người công chính
hay tội lỗi đã cho chúng ta những ví dụ để trả lời câu hỏi: làm thế nào để trở
thành anh em của người khác. Vậy, tu huynh là một người luôn luôn hành động như
một người anh em ruột thịt.[7]
1.2. Tu Huynh Trong Dòng Lịch Sử Giáo Hội[8]
Trong một giai đoạn rất dài của lịch sử Giáo Hội, các
tu huynh chỉ là những người trợ giúp cho các linh mục. Vì thế, từ tu huynh
dường như bị lãng quên và thay thế vào đó là từ trợ sĩ.
Trong tiếng Việt, từ trợ sĩ có lẽ chỉ mới xuất
hiện từ giữa thế kỷ XX, trước đây người ta gọi là thầy giúp. Quay sang
các ngôn ngữ Âu Tây, chúng ta cũng gặp nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn lay
brother trong tiếng Anh, hoặc frère convers trong tiếng Pháp. Thực
ra, xưa nay trong tiếng Latinh, các thầy trợ sĩ được gọi là conversi (người
hoán cải)[9],
và được đổi lại thành cooperatores (người cộng tác, cộng sự viên) từ sau
công đồng Vaticanô II. Tại sao có sự thay đổi ấy? Lý do là vì conversus
theo nghĩa đen là “người trở lại” (đôi khi được dịch là “quy sĩ”), và giả thiết
một tình trạng tội lỗi trước đó. (Thí dụ: lễ thánh Phaolô trở lại kính ngày 25
tháng giêng là conversio S. Pauli). Các thầy trợ sĩ đâu có phạm tội gì đâu
mà phải “trở lại”? Vì thế cần đổi tên là cooperator thì chính xác hơn.
Nói đúng ra, danh từ conversus đã có một lịch sử
tiến hoá lâu dài. Khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã kêu gọi hết mọi người
hãy cải hoán[10].
Sự cải hoán (trở lại, thay đổi não trạng và nếp sống) là một yêu sách của Phúc
Âm. Chính vì ý thức như vậy cho nên các đan sĩ đã tự coi mình là conversi, những
người liên lỉ cải hoán (conversio continua et perpetua). Trong luật
thánh Biển đức, sự cải hoán là một trong ba đối tượng của lời khấn của đan sĩ:
hoán cải nội tâm, vâng phục, vĩnh cư (conversio morum, obedientia,
stabilitas loci).
Dần dần sự sử dụng từ conversus bị hạn hẹp, nghĩa
là không áp dụng cho tất cả các người đi tu mà chỉ dành cho một hạng nào đó
thôi. Trước hết, các thiếu niên gia nhập đan viện không được mang danh là
conversi mà chỉ được gọi là oblati (người dâng mình). Sang thế kỷ thứ
VI, các oblati bao gồm không những các thiếu nhi mà cả những người lớn, dâng
mình phục vụ trong nhà dòng (tựa như ông bõ ở bên ta).
Vào những thế kỷ VIII-X, nhiều sự thay đổi đã diễn ra
trong hàng ngũ các đan sĩ:
- Các đan viện mở trường dạy học. Một số đan sĩ được đào
tạo để làm giáo và để làm linh mục. Từ đó nảy ra sự phân biệt giữa các literati
(người thông thái) và illiterati (người thất học).
- Một số đan sĩ ngại làm việc chân tay (trái ngược lại
với tinh thần của thánh Biển đức: “ora et labora” – cầu nguyện và lao động).
- Việc cử hành phụng vụ trở nên trang trọng. Một số đan
sĩ lớn tuổi không theo được (trước đó, sự cầu nguyện đơn giản hơn, và họ đọc
kinh thuộc lòng), vì thế họ tuân giữ một chế độ khác: họ đọc kinh ngắn hơn,
ngay tại chỗ làm việc chứ không tham gia cung nguyện).
Qua thế kỷ XI-XII, sự phân biệt giữa các conversi
và monaci đã thành rõ rệt. Trước đây, tất cả các đan sĩ (monaci) đều là
conversi; nhưng từ nay hai từ ngữ không còn đồng nghĩa nữa:
- Các monaci ở trong đan viện, chuyên việc kinh nguyện;
đa số là giáo sĩ.
- Các conversi lo việc lao động chân tay, sinh hoạt
ngoài nội vi (đồng ruộng, nông trại, công xưởng, vv).
Sự phân biệt này đã đánh dấu một khúc quặt trong lịch
sử đời tu.
Thực ra, vào lúc khai sinh đời tu trì trong Hội thánh,
các đan sĩ là giáo dân. Luật thánh Pacômiô (thế kỷ 4) không muốn có các linh mục
trong cộng đoàn bởi vì muốn tránh sự ghen tương và hám danh![11]
Các tác vụ bí tích được đảm nhiệm bởi các “tuyên úy” do Giám mục cử đến. Dần dần
con số các giáo sĩ trong các đan viện tăng thêm do nhiều nhân tố:
- Những giáo sĩ triều xin đi tu. Những linh mục này phải tuân giữ chế độ
kỷ luật giống như các đan sĩ khác[12].
- Vì hiếm các “tuyên úy” cho nên các viện phụ đề cử đan sĩ chịu chức
linh mục. Tiếc rằng chẳng bao lâu, “chức thánh” kéo theo “địa vị” nữa.
- Giáo hội cần những nhà truyền giáo đi mở đạo. Các đan sĩ này phải đảm
nhiệm chức vụ mục tử (của cha xứ nếu chưa nói là của giám mục).
- Ngoài ra, như đã nêu trên đây, việc mở trường học và việc chú trọng đến
phụng vụ cũng là một nhân tố đưa lại sự “giáo sĩ hoá” các đan sĩ, đến mức độ họ
chiếm đoạt luôn danh nghĩa đan sĩ (monaci): những ai không có chức linh mục
mang tên là conversi.
Vào thế kỷ thứ XI-XII,
các Dòng tu (Camalđôli, Vallumbrosa, Chartreux, Cluny, Xitô) đều có hai bậc
giáo sĩ và trợ sĩ, tuy có vài khác biệt nho nhỏ tùy theo bản sắc của mỗi Dòng.
Vào thế kỷ XX, quy chế của các trợ sĩ đã trở thành đầu đề xét lại trong
các dòng.
Thực ra, ai cũng biết là trong Giáo hội, những ai có chức thánh (giáo sĩ)
vẫn được ngồi cao hơn những ai không có chức thánh (giáo dân)! Hệ quả là trong
nhà thờ, các cha ngồi trên các xơ đã đành, nhưng mà trong tu viện, các giáo sĩ
vẫn ngồi trên các trợ sĩ: đâu là tình huynh đệ? Ở đây, nền tảng của sự phân biệt
không phải là “chức thánh”, nhưng dựa trên học lực, và lắm lần cũng dựa trên
tài sản (nhà giàu, thượng lưu, của hồi môn cao)!
Trong một thời đại đề cao sự bình đẳng xã hội, loại bỏ phân chia giai cấp,
ắt là các chế độ vừa nói cần phải được xét lại. Những đề nghị cải tổ đã được
gieo từ thập niên 50 của thế kỷ XX và được công đồng Vaticanô II đón nhận. Đời
sống huynh đệ cộng đoàn đòi hỏi phải loại trừ những sự phân chia giai cấp trong
Dòng[13].
Đó là nguyên tắc căn bản áp dụng cho cả Dòng nam lẫn Dòng nữ. Từ tiền đề ấy,
công đồng bàn đến vai trò các tu huynh.
Thực ra khi đọc các văn kiện Toà thánh[14],
chúng ta có thể phân biệt ba hạng “tu huynh” khác nhau:
- Các tu sĩ “giáo dân” (không có chức thánh) trong những dòng giáo sĩ,
chẳng hạn như trong dòng Đa Minh, Ngôi Lời, Chúa Cứu Thế.
- Các tu sĩ trong những Dòng mà các phần tử không nhất thiết phải chịu
chức thánh (thí dụ các đan sĩ trong các Dòng cổ; các tu sĩ Dòng Phanxicô).
- Các tu sĩ trong những Dòng thuần túy “giáo dân”, nghĩa là tự bản chất
không làm linh mục (thí dụ Dòng thánh Gioan Thiên Chúa; Dòng các sư huynh
Lasan).
Mỗi hạng có những vấn đề riêng của nó. Ngay cả trong hạng (1), quy chế
của các tu huynh cũng không đồng nhất. Dường như trong dòng Tên và dòng
Salesiens Don Bosco, các “trợ sĩ” được xếp ngang hàng với “Dòng Ba” chứ không
có lời khấn như các giáo sĩ.
Một điểm khá quan trọng nên lưu ý là ý nghĩa của từ “cooperator”
(cộng tác viên). Khi dịch là “trợ sĩ” (hay thầy giúp), người ta thường hiểu nhiệm
vụ của các thầy là “trợ giúp” (nếu chưa nói là: giúp việc) cho các linh mục! Hiện
nay người ta muốn dân chủ hơn: họ không phải là những người cộng tác với các
cha, nhưng là cộng tác (participare, partem habere, participes effecti) vào sứ
vụ (ministerium; missio Ordinis), cộng tác vào hoạt động tông đồ (activitas
apostolica).
Nhiều dòng đã cố gắng
xoá bỏ những bức tường ngăn cách giữa các giáo sĩ và tu sĩ. Vài lãnh vực đã được
thực hiện, nhưng còn nhiều chướng ngại cần phải vượt qua.
Vậy, theo dòng lịch sử, chúng ta có thể tạm
thời xem tu huynh là những nam tu sĩ không lãnh nhận chức thánh. Từ trước tới
giờ, tu huynh ở Việt Nam thường được gọi là thầy hoặc sư huynh. Từ
sư huynh được dùng để gọi các nam tu sĩ có liên quan đến ngành sư phạm
nhiều hơn, ví dụ như sư huynh các dòng Lasan, Thánh Gia, Kitô Vua... Nhưng xu hướng
hiện nay gọi họ cách chung là tu huynh (tu sĩ anh em). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
không muốn gọi dòng các tu huynh là “lay institutes” (dòng giáo dân) nhưng gọi
là “religious institutes of brother” (dòng các anh em). Tu huynh nghĩa là anh
em: em của Chúa Giêsu, anh em của nhau và anh em của người khác. Các tu sĩ được gọi là “tu
huynh” nhằm nói lên sự bình đẳng giữa các phần tử trong nhà dòng[15].
Còn căn tính của tu huynh xét về mặt thần học sẽ được
trình bày dưới đây.
Chương II:
MỘT VÀI CỐ GẮNG TÌM HIỂU CĂN TÍNH CỦA TU HUYNH
2.1. Tu Huynh Là Tu Sĩ Giáo Dân
2.1.1. Khái Niệm Chung
Danh hiệu giáo dân ở đây được
hiểu là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo
hội công nhận: nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô
nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế,
Ngôn sứ và Vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ: họ là những người đang
thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo
phận vụ riêng của mình[16].
Mọi
thành phần trong Giáo Hội, mục tử, giáo dân và tu sĩ, đều tham dự vào bản tính
bí tích của Giáo Hội. Cũng thế, mỗi thành phần, tuỳ theo sứ mạng của mình, phải
là dấu chỉ và dụng cụ phục vụ sự kết hợp với Thiên Chúa, và ơn cứu độ trần
gian. Quả thật đối với mọi người, ơn cứu độ mang hai khía cạnh:
- Ơn
gọi nên thánh: “Trong Giáo Hội, tất cả mọi người, cho dầu thuộc về hàng giáo phẩm
hoặc được hàng giáo phẩm hướng dẫn, đều được kêu gọi nên thánh”[17].
- Ơn
gọi làm tông đồ: Toàn thể Giáo Hội “được Thánh Thần thúc đẩy cộng tác để hoàn tất
trọn vẹn ý định của Thiên Chúa”[18].
Vì thế,
trước khi xem xét những ân huệ, sứ vụ và nhiệm vụ khác nhau, cần phải công nhận
ơn gọi nền tảng là được kêu gọi sống kết hợp với Thiên Chúa để cho thế gian được
ơn cứu độ. Ơn gọi này đòi hỏi mọi người phải lấy vị trí siêu việt của đời sống
trong Thần Khí làm tiêu chuẩn cho việc tham dự vào sự hiệp thông trong Giáo Hội.
Đời sống trong Thần Khí này phải là nền tảng cho thái độ lắng nghe Lời Chúa, sự
cầu nguyện trong nội tâm, ý thức sống với tư cách là chi thể của toàn thân,
thái độ ân cần lo cho sự hiệp nhất, việc trung thành chu toàn sứ mạng riêng,
thái độ hiến thân phục vụ và lòng khiêm nhường thống hối.
Từ đó,
“căn tính”, phẩm giá nguyên thủy của người giáo dân chỉ được bộc lộ trong thâm sâu của mầu nhiệm Giáo hội như là mầu nhiệm hiệp
thông. Và cũng chỉ trong thâm sâu của phẩm giá đó, người ta mới có thể định nghĩa
về ơn gọi và sứ vụ của họ trong Giáo hội và trong thế giới.[19]
2.1.2.
Tu Huynh Cắm Rễ Trong Bí Tích Thánh Tẩy
Mọi diễn giải
về ơn gọi tu huynh đều phải bắt đầu từ bí tích Thánh Tẩy. Mỗi tu huynh đều có
cùng một phẩm giá như mọi kitô hữu khác nhờ phép rửa. Cùng với sự tái sinh này,
tất cả các tín hữu được thánh hiến nhờ Đức Kitô, kết hợp với Ngài và được Ngài
kêu gọi sống cuộc đời thánh thiện và phục vụ. Sự thánh hiến của người tu huynh
còn là một dấu chỉ đầy đủ hơn nữa. Phát xuất từ nguồn mạch của phép rửa, các lời
khấn liên kết tu huynh với Chúa Giêsu bằng mối quan hệ hôn ước đặc biệt và là một
hy lễ hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa[20]. Điều này có nghĩa là các tu huynh cắm rễ sâu trong mối liên hệ với
Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Tẩy. Mối liên hệ đặc biệt của chúng ta với Ngài
là: Thiên Chúa là trên hết và chỉ mình Thiên Chúa. Vì thế, suy tư về việc lãnh
nhận bí tích Thánh Tẩy là điều quan trọng và thực tế cho đời tu huynh.
Tiếp nối bí tích Thánh
Tẩy, ơn gọi thánh hiến tu huynh là ơn gọi cá biệt Thiên Chúa nói với tri thức
thâm sâu nhất của con người, làm cho họ biến đổi tận gốc, không những bên ngoài
mà cả thâm tâm nữa, để trở thành một con người mới[21]. Ơn
gọi ấy thể hiện qua việc tuyên khấn. Đây là cách diễn tả căn tính tu huynh cách
trọn vẹn và cao quý. Cuộc đời của tu huynh là một lễ dâng sống động kết hợp với
hy lễ của Chúa Kitô[22].
Thiên Chúa không ngừng
mời gọi con người và con người ra sức đáp trả lời mời gọi ấy. Vì vậy việc thánh
hiến tu dòng phải được làm mới một cách liên lỉ. Tu huynh được khuyến khích đi
vào một thế giới mới, để Thiên Chúa chiếm đoạt con người mình dưới sự thúc đẩy
của Thần Khí và để biến đổi thế giới theo tinh thần của Tin Mừng[23]
sao cho mọi người thấy Thiên Chúa hiện diện trên trần thế.
2.1.3.
Tham Dự Vào Chức Vụ Tư Tế, Ngôn Sứ Và Vương Giả
Tu huynh cũng như người
giáo dân tham dự vào ba chức vụ của Đức Giêsu Kitô: tư tế, ngôn sứ và vương giả.
Vào thời Cựu Ước, chỉ có vua và tư tế mới được xức dầu. Hai hạng người này là
hình bóng cho vị vua – tư tế duy nhất trong tương lai là Đức Kitô, có nghĩa là “xức
dầu”. Không phải chỉ có vị thủ lãnh của chúng ta là người duy nhất được xức
dầu, cả chúng nữa, là thành phần trong thân thể Ngài, chúng ta cũng được xức dầu
với Ngài... Như thế, mọi kitô hữu đều được xức dầu. Chúng ta là thân thể của Đức
Kitô. Điều này rõ ràng phát xuất từ sự kiện: tất cả chúng ta đã được xức dầu và
trong Ngài, chúng ta là những người được xức dầu (Christi) và là Kitô, bởi vì một
cách nào đó, đầu và thân thể làm nên Đức Kitô trọn vẹn.[24]
Chúng ta là nhiệm thể của
Chúa Kitô, Đấng vừa là linh mục, vừa là Vua, vừa là tiên tri. Như vậy Giáo hội
trở thành một cộng đồng tư tế, vương giả và tiên tri; trong đó, có chức linh mục
cộng đồng và chức linh mục thừa tác. Chức linh mục thừa tác được dành riêng cho
hàng giáo phẩm và cho các ngài quyền tham dự vào chức linh mục của Chúa Kitô
trong chức thánh.
Gọi là chức linh mục cộng
đồng vì tất cả các tín hữu (giáo dân hay giáo sĩ thuộc hàng giáo phẩm) đều được
tham dự vào nhờ phép Rửa tội. Sự tham dự này cho mọi tín hữu khả năng tự mình
dâng lên Chúa lễ tế Thánh Thể, nhờ tay linh mục thừa tác cũng như họ có thể kết
hợp với lễ vật hy sinh là Chúa Kitô trong khi rước lễ, và như vậy được dâng
chính mình lên như lễ thiêng liêng cho Thiên Chúa, các tín hữu cũng tham dự quyền
vương giả của Chúa Kitô nhờ phép rửa tội và thêm sức. Quyền vương giả cho họ sức
mạnh tinh thần để chế ngự bản tính riêng của họ, bắt nó tùng phục quyền bính
Thiên Chúa, để chinh phục mọi người cho Nước Trời và chiếu sáng tinh thần Phúc
Âm trong lãnh vực trần thế.
Sau cùng, các tín hữu cũng
tham dự quyền tiên tri. Mọi tín hữu có quyền làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời
nói và bằng chính đời sống Kitô hữu. Tính ngôn sứ của tu huynh sẽ được trình
bày cặn kẽ hơn trong một mục sau.
2.1.4.
Ơn Gọi Làm Tông Đồ
Ơn gọi làm tông đồ phát
sinh từ bí tích Rửa tội và Thêm sức; và do đức ái mà Chúa Thánh Thần đổ tràn
trong tâm hồn, các tín hữu được thúc đẩy giúp mọi người tham dự vào cuộc sống của
Thiên Chúa.
Tu huynh sống trong thế
giới và giữa những thực tại trần gian, cho nên ơn gọi của họ là thánh hóa những
gì trần tục. Bởi thế, đời sống đạo đức cá nhân của người tu huynh sẽ nhận được
cảm hứng, từ đời sống hoạt động của họ giữa người khác và giữa cuộc đời. Đứng
trước thế giới, tu huynh có sứ mệnh phải kiến tạo, hoàn hảo hóa sao cho nó trở
nên hấp dẫn đối với mọi người và thích hợp với ý định của Thiên Chúa.
Giáo hội được khai sinh
là để làm cho nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh
Thiên Chúa, tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc tội và cứu rỗi, để
nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được qui hướng về Chúa Kitô. “Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”[25] Mọi
hoạt động của nhiệm thể hướng về mục đích nầy gọi là việc tông đồ, công việc mà
Giáo hội tín hữu nhờ tất cả các chi thể, tùy theo những cách thức khác nhau, bởi
vì ơn gọi làm kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Cũng như toàn bộ
một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng cùng tham dự
vào đời sống và công việc của toàn thân. Cũng thế, trong nhiệm thể Chúa Kitô tức
Giáo hội, toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử khiến thân thể được
tiến triển”[26]. Hơn
nữa, các chi thể trong thân thể này gắn bó và liên kết chặt chẽ với nhau[27] đến
nỗi chi thể nào không hoạt động đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển
toàn thân đều bị coi là không dụng ích đối với Giáo hội cũng như với chính
mình.
Vì vậy hết mọi tín hữu,
trong đó có tu huynh, đều có bổn phận rất cao là hoạt động để mọi người trên khắp
hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ của Chúa.
2.2. Đời Sống Chung Huynh Đệ
Đời thánh hiến bắt nguồn và dựa theo khuôn mẫu Chúa Ba
Ngôi, “nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”[28]
Đó là khuôn mẫu của tình hiệp thông huynh đệ.
Trong thời sơ khai của giáo hội, các tín hữu họp lại
thành cộng đoàn và sống với nhau trong tình huynh đệ như lời Chúa Giêsu dạy: “Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em”.[29]
Cuộc sống của họ là mẫu gương nhân chứng tuyệt vời:
Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người
tuỳ theo nhu cầu.
Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ.
Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ và vui vẻ.[30]
Kiểu mẫu đời sống huynh đệ trên đây của họ có thể coi
là đời sống tu hành sơ khởi, là tiền đề cho các dòng tu sau này.
Kế đến, ba lời khuyên Phúc Âm gắn liền người tu sĩ với
cộng đoàn, và cộng đoàn là môi trường thực hiện ba lời khuyên ấy: sự vâng phục
nối buộc và liên kết các ý chí thành một cộng đoàn huynh đệ, đảm nhận một sứ mạng
trong Giáo hội. Sự khó nghèo, - bao hàm việc chia sẻ các của cải vật chất và
thiêng liêng -, ngay từ nguyên thủy đã trở thành nền tảng của mối thông hiệp
huynh đệ. Trong chiều kích cộng đoàn, sự khiết tịnh tận hiến - bao hàm sự trong
sạch về trí tuệ, tâm hồn và thể xác - diễn tả sự tự do để yêu mến Thiên Chúa và
tất cả những gì thuộc về Ngài với con tim không chia sẻ, và chính nhờ thế biểu
lộ việc tâm tình hoàn toàn sẵn sàng yêu thương và phục vụ hết mọi người.
Nhưng tình huynh đệ còn hơn thế nữa. Đó
chính là thuật ngữ cơ bản nói về sự hiệp nhất trong Chúa Kitô và là lời ngôn sứ
tiên báo sự hợp nhất trong nước trời.[31]
Nơi ấy cũng là mô phỏng của Nước
Thiên Chúa, một vương quốc mà tu huynh đang góp phần xây dựng[32].
Ơn gọi của tu huynh có sức sống và được tăng trưởng là
nhờ nơi cộng đoàn[33].
Cộng đoàn bày tỏ sự bình đẳng cơ bản của mỗi thành viên vì họ đều là con cái
Thiên Chúa. Điều này xuất hiện rõ ràng hơn trong những cộng đoàn chỉ gồm những
tu sĩ giáo dân.[34] Sống
cộng đoàn là một cách đáp trả lời mời gọi của Lời để theo Đức Giêsu, như lúc
Ngài còn đang rao giảng và như Hội Thánh sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Các tu huynh bày tỏ sự đồng trách nhiệm của tất cả các thành phần trong cộng đoàn.
Nhờ đó, họ có thể thực thi sứ vụ đặc thù của cộng đoàn và của nhà dòng[35].
“Thiên Chúa muốn mọi người đón nhận điều mình cần từ
người khác”[36].
Nơi cộng đoàn, mỗi tu huynh mang những khác biệt để bổ sung cho nhau, làm phong
phú cho nhau[37].
Anh em này sẽ là quà tặng và là sự bổ túc cho anh em khác. Do đó đời sống cộng đoàn
là một chứng tá về những ân huệ và đặc sủng nhiều loại, những nhu cầu và ơn gọi
nhiều loại[38].
Nhờ vậy mỗi tu huynh trong cộng đoàn sống độ lượng, hảo tâm và chia sẻ với nhau[39].
Thông thường các tu huynh luôn cố gắng sắp xếp sao cho
ít nhất hai người đi làm việc hoặc sống với nhau ở bên ngoài cộng đoàn. Các tu
huynh được khuyến khích làm việc chung để làm chứng cho sự hiệp nhất huynh đệ.
Tu huynh luôn tìm mọi cách để hiệp nhất với nhau qua đời sống và phục vụ. Nhờ đó,
thế giới sẽ nhận ra rằng sự hiệp nhất này đến từ Thiên Chúa Cha.[40]
Thực tế thì các tu huynh là “những chuyên gia về hiệp
thông” của Giáo Hội cũng như thế giới[41].
Thánh Thần luôn bảo hộ khả năng thông hiệp của họ. Chúng ta thấy đời sống chung
huynh đệ thể hiện qua việc phục vụ Giáo Hội. Chúng ta tin rằng sự hiệp nhất của
chúng ta là một chứng tá sống động trong một xã hội bàng quan và chia rẽ hiện
nay, “trong một xã hội khao khát thật sâu xa tình huynh đệ không biên giới –
cho dù đôi khi xã hội này không nhận ra điều đó”[42].
Như một dấu chỉ của sự hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa
và sự hiệp thông trong Giáo Hội, tu huynh thể
hiện đức ái qua niềm tin, thánh lễ và lời cầu nguyện hằng ngày, sống
chung trong một mái nhà, thực thi các sứ vụ chung, tham gia các nhóm của anh em
và các hoạt động chung khác.[43], Chúng ta sẽ là những tu huynh chính hiệu khi chúng
ta đứng vững trong cùng một Thần Khí, đồng tâm hiệp lực, kề vai sát cánh trong
một niềm tin vào Lời Chúa.
Từ kinh nghiệm sống trong cộng đoàn, tu huynh sẽ phục
vụ một sự hiệp thông phổ quát hơn, tìm ra những phương thế để phát triển những
quan hệ huynh đệ với mọi người: là bạn hữu quý mến, là anh em ở giữa anh em, nhất
là những người thiếu may mắn hoặc bị gạt ra lề xã hội[44].
2.3. Lễ Vật Hoàn Hảo Dâng Lên Thiên Chúa Thông Qua Các Lời Khuyên
Phúc Âm
Tu huynh là những người theo Đức Kitô, bằng cách công
khai tuyên khấn những lời khuyên Phúc Âm: khiết tịnh, nghèo khó, vâng phục; và
cam kết tránh xa những gì có thể làm cho đức bác ái không được sốt sắng và việc
thờ phượng Thiên Chúa không được trọn hảo. Quả vậy, người tu huynh “tận hiến
cho Thiên Chúa, là Đấng họ yêu mến trên hết mọi sự, để chăm lo việc phụng sự
Thiên Chúa, làm vinh danh Người với một danh nghĩa mới mẻ và đặc biệt”[45].
Sự tận hiến ấy “liên kết họ với Giáo Hội và với mầu nhiệm của Giáo Hội một cách
đặc biệt”, thúc đẩy họ hành động với lòng tận tuỵ không chia sẻ để phục vụ lợi
ích của toàn Thân Thể.[46]
Lời mời gọi mầu nhiệm và nhưng không của
Thiên Chúa là cội rễ của sự thánh hiến tu huynh. Thêm vào đó, sự đáp trả tự hiến
của tu huynh với kế hoạch của Thiên Chúa, cũng là nhưng không nữa. Ơn Chúa thúc
giục tu huynh đáp trả, vì vậy sự thánh hiến của tu huynh “về phía con người, được
diễn tả là một sự đáp trả bằng một sự phó thác toàn thân sâu xa và tự nguyện”[47].
Lễ vật của tu huynh dâng lên Thiên Chúa là các lời khấn khiết tịnh, khó nghèo
và vâng phục. Công đồng Vatican II xác định rõ:
Chính nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm mà mình đã đáp
ứng ơn thiên triệu, vì thế, chẳng những phải chết đi cho tội, nhưng còn phải từ
bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa, và sự tận hiến ấy đã thực sự tạo
nên một hiến tế đặc biệt, ăn rễ sâu trong hiến lễ của ngày chịu phép rửa tội, đồng
thời biểu lộ hiến lễ này cách trọn hảo hơn.
[48]
Các lời khấn ấy, đơn giản là một tiếng “xin
vâng” tích cực, biểu hiện một sự thánh hiến trọn vẹn, khiến cho tình yêu của tu
huynh đối với Thiên Chúa và tha nhân trở nên hoàn hảo[49].
Chính những đòi hỏi của phép rửa tội - chết cho thế gian và sống cho một mình
Thiên Chúa - được ưng thuận và phê chuẩn cách đầy đủ và hoàn hảo trong khi
tuyên khấn, cho nên chẳng những sinh ra cùng một công hiệu như phép rửa tội, là
tha hết mọi hình phạt đáng phải chịu vì những tội quá khứ, nhưng còn làm thành
một bậc hoàn thiện, bậc mà phép rửa tội đã lãnh nhận không tạo ra.
Tu huynh là những tông đồ vất bỏ lại mọi
thứ sau lưng để bắt chước Đức Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Tu huynh
nhấn mạnh đến đức khiết tịnh hiến dâng, coi đó là một hồng ân đặc biệt của
Thiên Chúa. Mối liên hệ độc thân thánh hiến với Chúa Giêsu Kitô là “vui vẻ thực
hành đức khiết tịnh hoàn hảo... Trong Đức Kitô, người ta có thể yêu mến Chúa với
hết cả con tim, đặt Ngài lên trên mọi mối tình, và yêu thương mọi thụ tạo với sự
tự do của Thiên Chúa.”[50]
Vì tình
yêu, Đức Kitô đã tự hạ mình xuống để làm người. Ngài đã tách mình ra khỏi mọi sự
của thế gian nhưng không khinh chê nó.[51] Noi gương Ngài, tu huynh biểu lộ một sự tách biệt với thế
giới để cắm rễ sâu hơn vào Chúa Giêsu[52].
Cụ thể là, thể hiện bằng cách làm quen dần với nếp sống cộng đoàn. Sự tách biệt
ấy còn bao gồm thực hành sống khổ hạnh và thanh đạm.
Đối
lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy vật chất ngày nay, tu huynh sống đơn giản trong
tư cách cá nhân và cộng đoàn, không có tài sản hay thu nhập cá nhân[53]. Tu huynh chấp nhận từ bỏ quyền sở hữu của
cải vật chất trần gian để toàn tâm toàn ý lo cho việc phụng sự Thiên Chúa và
con người[54].
Các vị giáo sĩ đã từ bỏ thế nào, thì tu huynh còn có thể từ bỏ mạnh mẽ hơn nữa.
Kết quả là tu huynh có thể sống khó nghèo tốt hơn. Đây chính là cách thực hành
một trong các mối phúc: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của
họ”.[55]
Là tu huynh, người tu sĩ mặc nhiên chấp nhận vị trí
khiêm nhu của mình. Nhờ vậy, tu huynh có điều kiện thực thi lời khấn vâng phục
trọn vẹn hơn. Hơn nữa, với địa vị như vậy, tu huynh là chiếc cầu nối hữu hiệu
giữa giáo dân và giáo sĩ. Hình ảnh các thầy dòng hoà mình vào đời sống dân dã
qua bao thế hệ là một bằng chứng.
Do đó, đời tu huynh là một cách thức đặc biệt để thông
phần vào bản chất bí tích của Dân Thiên Chúa. Quả vậy, sự thánh hiến của anh em
tu huynh làm chứng cho thế giới thấy rõ hình ảnh của Đức Kitô, bằng cách phản
chiếu Đức Kitô
đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên
Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau ốm tàn tật, hay hoán cải các tội
nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em, ban ơn lành
cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai người
đến.[56]
2.4. Chứng Tá Ngôn Sứ Cho Nước Trời
Ngôn sứ là người có kinh nghiệm trực tiếp về Thiên
Chúa, được Thiên Chúa mạc khải về sự thánh thiện và về những ý định của Người,
là người được Thiên Chúa sai đi nói về Thiên Chúa cho nhân loại và nhắc nhở
nhân loại trở lại cùng Người.[57]
Nhờ kinh
nghiệm về Thiên Chúa, tu huynh hiểu biết về con người và biết chia sẻ vui buồn
với tha nhân, sẵn sàng phục vụ mọi người, nhất là những người thiếu thốn nhất[58].
Tu huynh được
mời gọi để trở thành người của Chúa, mang theo Thần Khí Chúa, để Chúa là động lực
duy nhất của cuộc đời mình. Nhờ vậy, tu huynh nhập cuộc vào trần thế để tỏ cho
thấy lòng Chúa yêu thương con người[59].
Từ đó, tu huynh được Thần Khí thúc đẩy để nhạy cảm đối với những việc mục vụ cấp
bách của Giáo Hội và những nhu cầu của thế giới, làm chứng rằng Thần Khí đang
hoạt động trong những hình thức tông đồ khác nhau.
Đời
sống tu huynh có tính ngôn sứ vì nó vừa tiên báo một vương quốc của Thiên Chúa,
vừa mạc khải “nước Thiên Chúa đã gần đến”[60].
“Cho đến nay, cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi vẫn làm việc”[61].
Đó là do nước Thiên Chúa vẫn chưa hoàn tất và đang tiến đến thời cánh chung,
nghĩa là “ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”[62].
Đời tu huynh phát triển trong ý thức rằng nước Thiên Chúa đang có đây rồi và đang
được hoàn thiện dần dần. Tu huynh sống cho những giá trị đời sau và cố gắng
tiên báo bằng chứng tá đời sống hiện tại như những ngôn sứ của Giáo Hội[63].Tu huynh làm chứng cho thế giới chóng qua này về một viễn tượng
phục sinh và hạnh phúc trong Chúa. Truyền thống luôn hiểu đức khiết tịnh hiến
dâng là tiên báo về nước trời, là diễn tả cách hùng hồn sự nếm thử trước vinh
quang Thiên Chúa[64],
bởi vì trong thế giới ấy, người ta không còn phân biệt vợ với chồng, nam với nữ
và người ta sống như các thiên thần[65].
Trên trần thế, tu huynh đóng vai trò người mang dấu chỉ
thời đại của Thiên Chúa. Trong một thế giới mà con người luôn tìm cách vươn
lên, thậm chí “ngoi lên” bằng bất cứ giá nào, thì đời sống tu huynh là một bằng
chứng của sự từ bỏ: quyền lực, địa vị, quyền sở hữu của cải vật chất… Cũng như
các ngôn sứ xưa, tu huynh được kêu gọi để tố cáo đời sống xa hoa, sự thiếu liên
đới, nạn bất công, nạn kẻ mạnh áp bức kẻ yếu, chiến tranh, chia rẽ. Nhưng họ chỉ
làm được công việc này theo mức độ họ tái khám phá ra sức mạnh của họ, và những
phương tiện cụ thể để thực hiện hữu hiệu. Và khi ấy họ sẽ tìm lại được năng động
ngôn sứ.[66] Với
tư cách là người được thánh hiến, người tu sĩ có thể nhận thức phẩm giá con người
và cho sự hiện diện của mình trở thành cách loan báo Tin Mừng và tố giác những
nguyên nhân gây ra những cơ cấu xã hội bất công.
Không chỉ có thái độ ngôn sứ đối với xã hội, chính đời
sống các tu huynh là một lời chất vấn Giáo Hội. Đó là sự phân biệt đối xử giữa
các bậc sống, lạm dụng quyền bính, quan liêu, thiếu dân chủ, chú trọng vào các
tác vụ thánh hơn các tác vụ khác[67],
chú trọng quyền lực hơn là phục vụ, công việc hơn là tình người, thành tích hơn
là liên hệ nhân vị[68],
cung cách hoạt động giảng dạy hơn là làm chứng nhân, hô hào nhiều hơn là thực
thi bình đẳng và bác ái ngay trong lòng Giáo Hội.
2.5. Phục Vụ Trong Tương Quan Với Giáo Hội Và Tha Nhân
2.5.1.
Tu Huynh Và Giáo Hội
Tu
huynh phục vụ nhân danh Giáo Hội, và được “hiến thân để phục vụ Thiên Chúa cách
thân tình hơn”[69].
Không chỉ đơn thuần là được hiến thân cho sứ vụ, bản thân đời sống tu huynh đã
là một sứ vụ rồi[70].
Do đó, tu huynh phải “lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể của Giáo Hội đến việc
can đảm chu toàn ơn gọi làm kitô hữu”[71].
Sự phục vụ của tu huynh cũng là thánh hiến, là “một đời sống yêu thương, cho đi,
một đời sống phục vụ cụ thể và quảng đại”[72]
theo gương Đức Kitô, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ”[73].
Sứ vụ đặc biệt của ngành tu huynh là tân Phúc Âm hoá, nhờ đó tu huynh tìm cách đem
Chúa Giêsu đến những Giáo Hội ly khai hoặc ít có liên hệ với Công Giáo. Tu
huynh là những tôi tớ trong bất cứ việc gì, dù lớn hay nhỏ, để giúp người ta đạt
đến chân – thiện – mỹ và yêu mến Thiên Chúa luôn mãi.
Các hội
dòng tu huynh tự nó làm thành một bậc sống đầy đủ để tuyên giữ các lời khuyên
Phúc Âm[74].
“Vì vậy, đời sống thánh hiến có một giá trị chuyên biệt cho cá nhân cũng như
cho Giáo Hội, không gắn liền với tác vụ chức thánh”[75].
Không thể
chối cãi được rằng đời sống thánh hiến nằm ngay trong lòng Giáo Hội[76].
Kể từ khi Thiên Chúa thiết lập những hội dòng đầu tiên, những hội dòng đã chọn
Chúa Kitô bằng cách triệt để tuân theo các lời khuyên Phúc Âm, trụ cột của các
nhóm tu sĩ đầu tiên chính là các anh em tu huynh, như các ẩn sĩ trong sa mạc,
dòng Biển Đức, dòng Phanxicô, các sư huynh chuyên lo về giáo dục... Họ đáp trả
lời mời gọi của Chúa để thành lập những cộng đoàn huynh đệ, phản chiếu đời sống
thánh hiến bằng nếp sống đơn sơ thánh thiện. Với những đoàn sủng và sứ vụ khác
nhau, các cộng đoàn tiên khởi này, đã đáp trả sự mời gọi canh tân của Thần Khí.
Nếu không có tu huynh, sức sống của Giáo Hội sẽ giảm xuống.
Trong mầu nhiệm Giáo Hội, sự duy nhất trong Đức Kitô
bao hàm sự hiệp thông hỗ tương trong đời sống giữa các thành phần. Quả thế, “Thiên
Chúa đã không muốn thánh hoá và cứu độ con người cách riêng rẽ, ở ngoài mọi
liên hệ hỗ tương, nhưng đã muốn cho họ hợp thành một dân tộc”[77].
Sự hiện diện của Thánh Thần[78]
là Đấng ban sự sống thực hiện trong Đức Kitô sự đoàn kết giữa các thành phần với
nhau. Chính Người làm cho Giáo Hội được duy nhất trong sự hiệp thông và trong
công cuộc phục vụ; Người trang bị cho Giáo Hội và điều khiển Giáo Hội nhờ những
ân huệ theo phẩm chức và đặc sủng, Người dùng các hoa quả của Người mà trang điểm
cho Giáo Hội[79].
Vì thế, những yếu tố làm cho các phần tử trong Giáo Hội
khác biệt nhau, những ân huệ, nghĩa là những chức vụ và việc làm khác nhau; hợp
thành một thứ tổng hợp thu gồm những điểm bổ túc cho nhau; những yếu tố và những
ân huệ đó thực sụ quy hướng về sự hiệp thông duy nhất và về sứ mạng của cùng một
“Thân Thể”[80].
Trong Giáo Hội, các mục tử, giáo dân hoặc tu sĩ có thể sống chung với nhau, mà
không có tình trạng bất bình đẳng về phẩm giá chung của các phần tử[81];
nhưng đúng hơn, những chỗ nối và các chức năng của một cơ thể ăn khớp với nhau.
Ơn gọi tu huynh giúp kiện toàn và làm cho cơ cấu giáo
hội thêm phong phú. Nhiệm thể Chúa Kitô gồm nhiều thành phần, như thánh Phaolô đã
viết:
Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận,
mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng
chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như
những bộ phận của một thân thể. Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo
ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho
phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy
bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ
toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm.[82]
Hoặc trong ca dao Việt Nam:
Ngón tay cái béo mà lùn
Trời sinh thừa sức đẩy đun nắm cầm
Ngón tay trỏ vốn hảo tâm
Đường đi chẳng nỡ chỉ lầm cho ai
Ngón tay giữa lớn mà dài
Là ngôi thứ nhất thứ hai trong làng
Ngón tay đeo nhẫn giàu sang
Kim cương lóng lánh điểm trang hữu tình
Ngón tay út bé mà xinh
“Trên hết, tu huynh là những người làm việc”[84]
như lời Chúa Giêsu dạy: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực
mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.[85]
Trong khi hàng giáo sĩ lo mục vụ như những chủ chăn trong các giáo xứ, cử hành
thánh lễ và các bí tích… các tu huynh thường dấn thân vào các lãnh vực chuyên
môn mà những vị có chức thánh khó có điều kiện thực thi. Còn tu huynh, các anh
em không vướng bận các công việc như giáo sĩ nên họ có thể dành trọn thì giờ và
khả năng của mình cho những công việc tưởng chừng như bình thường nhưng vô cùng
cần thiết. “Có thực mới vực được đạo.” Một khi không có cơm ăn áo mặc, chữ nghĩa
không biết, sức khoẻ không được chăm sóc… người ta không thể nghĩ đến vấn đề đạo
đức gì được. “Con đường truyền giáo cơ bản là con đường đi qua bao tử người ta.”[86]
Một nhận xét hơi cực đoan song cũng đáng để chúng ta suy nghĩ. Đến nay, giáo hội
có thể tự hào về những đóng góp cho một nền giáo dục Kitô của các sư huynh
Lasan, cho việc chăm sóc bệnh nhân của các thầy dòng Gioan Thiên Chúa, hoặc cho
việc phát triển môi trường, nhân sinh của các tu huynh Ngôi Lời… Vậy, tu huynh không phải là những người
thiếu khả năng hay yếu kém về mặt thiêng liêng nhưng là người nhận ra lời mời gọi
của Thiên Chúa thông qua giáo hội và hội dòng để thực hiện những sứ mệnh mà giáo sĩ, nữ tu hoặc giáo dân không dễ gì đảm nhận được[87].
Cùng với sự hiện hữu và đời sống chứng tá, các tu
huynh làm cho giáo hội cũng như các hội dòng thêm phong phú. Tổng tu nghị năm
1998 của dòng Ngôi Lời đã diễn tả tu huynh như một căn tính cấu thành hội dòng:
“Sự thiếu vắng một tu huynh trong một cộng đoàn SVD sẽ làm nghèo nàn đi chứng
tá tu sĩ truyền giáo của chúng ta.”[88]
Vì vậy bậc Tu Dòng Giáo dân, nhìn như là cách biểu thị
sự thánh hiến toàn thân cho nước Thiên Chúa, là một sự tỏ bày sự thánh thiện nơi
vị hiền thê của Chúa Kitô, và đóng góp một cách hữu hiệu và đặc sắc cho việc
phát triển sứ vụ của Giáo hội trong việc Phúc Âm hoá, và trong những tác vụ
tông đồ muôn cách. Người ta không thể nghĩ tới bậc tu hành trong Giáo hội mà
không nêu lên sự hiện hữu của Ơn Gọi sống bậc giáo dân đặc biệt này, ngày nay vẫn
đang mở rộng, đón bao nhiêu là Kitô hữu, nhờ đó họ có thể dâng đời mình để đi
theo Đức Kitô và phục vụ nhân loại[89].
2.5.2. Tu Huynh Là Anh Em Của Mọi
Người
Đối với tu huynh, Đức Kitô là một khuôn mẫu hoàn hảo về
tình huynh đệ và các tu huynh cũng cố gắng bắt chước Ngài, người Anh của chúng
ta. Ngài là một mẫu gương hoà đồng và phục vụ. Chúa Giêsu không muốn mình là chủ,
là Chúa. Ngài đã từng nói với các môn đệ:
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ
không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.[90]
Ngay chữ “tu huynh” cũng đã nói lên một căn tính và
linh đạo phong phú[91].
Các tu huynh được gọi là anh em của Đức Kitô, được “tiền định cho họ nên đồng
hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn
em đông đúc”.[92]
Tu huynh là anh em với nhau, anh em của những người khác, đặc biệt đối với những
người nhỏ bé và nghèo túng nhất; trở thành anh em để đạt tới tình huynh đệ lớn
lao hơn trong Giáo Hội. “Tu huynh nhắc nhở cách hữu hiệu các tu sĩ linh mục chiều
kích căn bản của tình huynh đệ trong Đức Kitô, vì họ phải sống với nhau và với
bất cứ người nào”[93].
Và cho dù bị
coi là có địa vị thấp kém, thì những người này cũng đã được Chúa Giêsu đề cao: “Ai
muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu
anh em thì phải làm đầy tớ anh em”.[94]
Họ là dấu chỉ của uy lực của Chúa Kitô phục sinh, ngài đã ban cho con người được
tự do đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa để chấp nhận từ bỏ thế tục, tuy nhiên sự
từ khước đó không làm tổn thương nhân phẩm, hoặc tình yêu sự sống hiện tại hay
khả năng phục vụ mọi người, trái lại nhờ đó mà tu sĩ hoạt động cách vô vị lợi, được
yêu tất cả mọi người cách rộng rãi, được sẵn sàng để phục vụ hơn.[95]
Tu huynh đã
áp dụng những căn tính và linh đạo nói trên vào sứ mạng rao giảng Tin Mừng, làm
anh em của mọi người bằng cách đến với họ, bất kể niềm tin – tôn giáo của họ ra
sao. Với vị trí của mình, tu huynh không nại đến quyền lực hay mệnh lệnh nên dễ
dàng đồng hành với dân chúng trên hành trình đến với Chúa Giêsu.
2.6. Căn Tính Của Tu Huynh
Tóm lại,
Tu huynh là một nam tu sĩ giáo dân cam kết sống một đời sống chung và được
thánh hiến bằng việc tuyên hứa công khai các lời khấn dòng, để làm chứng cho sự
hiện diện của Thiên Chúa nơi đời sống của mình và nơi thế gian. Tu huynh bộc lộ
căn tính của mình bằng gương sáng hơn là biện giải, bằng việc làm hơn là định
nghĩa. Cách riêng, anh ta cư xử và hành động như một người anh em với bất cứ
ai. Bình đẳng với anh em và được các anh em cùng chí hướng trong cộng đoàn nâng
đỡ, anh tự do đáp trả bằng nhiều cách phong phú và thực tế, sống và làm việc
trong tình huynh đệ với mọi người trong việc bảo vệ, giúp thăng tiến phẩm giá
và công lý của con người qua thái độ ngôn sứ và nghề nghiệp chuyên môn.[96]
Chương III:
NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA ƠN GỌI TU HUYNH
3.1. Phải
Chăng Các Tu Huynh Có Đời Sống Nội Tâm Chưa Sâu Sắc?
Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được[97].
Chúng
ta thấy “hoa quả” của ngành tu huynh còn ít ỏi so với các giáo sĩ cũng như nữ
tu. Điểm hạn chế dễ thấy nhất, đó là số lượng các nam tu sĩ. Vậy phải chăng đời
sống chiêm niệm của tu huynh chưa đủ sâu sắc, nên chúng ta chưa múc được sức mạnh
của Chúa nơi mạch suối thiêng liêng? Phải chăng chúng ta đã để cho nghề nghiệp
và hoạt động tông đồ lấn át đời sống cầu nguyện?
Vì
vậy, Công Đồng Vatican II đã khuyên:
Những
ai khấn giữ các lời khuyên Phúc âm, đều phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa
trên hết mọi sự, vì Người đã yêu chúng ta trước[98], trong mọi hoàn cảnh, phải cố gắng phát triển
đời sống náu ẩn của Chúa Kitô trong Thiên Chúa[99], vì đó là nguồn mạch và động lực phát sinh
tình yêu tha nhân nhằm cứu rỗi nhân loại và xây dựng Giáo hội cũng chính đức mến
này làm linh động và điều khiển việc thực hành các lời khuyên Phúc âm.[100]
3.2. Công Cuộc Cứu Rỗi Trần Thế Và Nguy Cơ
Trần Tục Hoá
3.2.1. Công Cuộc Cứu Rỗi Trần Thế
Vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người
nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của
các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo
âm hưởng trong lòng họ.[101]
Do đó
ưu tư của tu huynh là việc cứu rỗi trần thế. Trần thế không chỉ là nơi để làm
việc mà hơn hết đó là nơi thần thiêng để gặp gỡ Chúa[102]. Thách đố của người tu huynh là làm sao
nhìn ra trần thế dưới ánh sáng của Thiên Chúa để thi hành sứ vụ theo đặc sủng của
mình, nghĩa là kết nối Giáo Hội với trần thế, ngay cả ở những nơi mà Giáo Hội
chưa có mặt[103].
“Chúa
Thánh Thần bày tỏ ý của Ngài cách nhiệm lạ qua những biến cố của thời đại và
nguyện vọng của nhân dân.”[104] Những nhu cầu quan trọng của nhân loại, những
lời kêu gọi của Giáo hội sẽ là kim chỉ nam cho cuộc tìm kiếm và mọi sáng kiến.
Do đó ta sẽ liên lỉ lắng nghe tiếng gọi của thời đại mà hằng ngày phát biểu qua
những hiện trạng và các biến cố mà cộng đoàn sẽ cùng nhau tìm hiểu[105]. Những tiếng kêu của nạn đói trên hoàn cầu,
của kỳ thị sắc tộc, người bóc lột người, bạo động, chiến tranh, hoà bình bị đe
doạ, cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức, hoặc những tiếng kêu của những kẻ mất
thích ứng, của tuổi trẻ sa đoạ, của bệnh tật, mất gốc, gia đình phân hoá.[106]
3.2.2. Nguy Cơ Trần Tục Hoá
Tu huynh là những người sống giữa thế
gian nhưng không thuộc về thế gian[107]. Tuy nhiên nguy cơ trần tục hoá
luôn theo sát họ.
Thách đố của ơn gọi tu huynh là khủng hoảng căn tính. Một số tu huynh coi
công việc làm quan trọng hơn là chính ơn gọi của mình. Ơn gọi của chúng ta đến
từ Thần Khí, tự nó có tính sáng tạo[108]. Vậy, phải làm sao để Thần Khí
hoàn toàn tự do hành động, và cho các tu huynh trung thành với Thần Khí hơn là
với khả năng chuyên nghiệp, mặc dù khả năng ấy là cần thiết[109].Nếu tu huynh tìm danh tiếng, uy
phong, quyền thế để bù đắp thiệt thòi cho bản thân mình thì thật là đáng buồn.
Không ai có thể chấp nhận hành động “chơi cùi chỏ nhau” để tìm cách làm nổi
danh mình[110].
Hơn nữa, nghề nghiệp không phải là cứu cánh của tu huynh. “Ưu tiên của chiều
kích tông đồ ở trên tính nghề nghiệp.”[111] Dù trong trường hợp nào, chúng
ta cũng phải “xây nhà trên đá”[112], chứ không xây dựng trên ảo ảnh.
Lý do chính để chúng ta dấn thân là “theo” Chúa Giêsu, là khát khao phục vụ
Ngài qua việc phục vụ anh em và tha nhân nói chung[113] và càng không phải là động cơ tạo
lập một “nghề” trong giáo hội[114]. Tu huynh không làm việc chỉ vì
công việc, chắc chắn là không vì tiền công hay những lợi lộc cá nhân. Tu huynh được
ơn gọi hãy quên mình, điều mà thông thường không ai đòi hỏi người khác[115].
Nói như thế không có nghĩa là Tu huynh sợ sẽ phải xa Chúa khi hoà mình với
mọi người để “phục vụ họ”[116], sẽ không cách biệt Chúa Kitô
khi ta sinh hoạt giữa loài người[117]. Trái lại, càng hoạt động tông đồ
cách chính trực càng tiến bộ về mặt siêu nhiên: càng chú ý lắng nghe tiếng nói
của loài người, ta càng sẵn sàng trung tín nghe theo Lời Chúa; càng quên mình,
Chúa Kitô càng lớn lên trong ta; hy sinh vô vị lợi, vô bờ bến, sẽ tạo cho ta được
trái tim của người nghèo. Nhưng hoạt động theo tính nông nổi, tìm hư danh, vị kỷ
đó là sự bại hoại, khiến ta không còn nghe được tiếng nói của Chúa qua những
nhu cầu thực sự của thế giới; mà nếu ý thức được sẽ làm cho tu huynh chuyên tâm
cầu nguyện, luôn hướng nhiều về Thiên Chúa, chỉ có Ngài mới xây dựng được Nước
Trời.[118]
3.3. Canh Tân Để Thích
Nghi
Sự trung thành với căn tính của mình buộc tu huynh
phải có óc sáng tạo và canh tân chứ không lặp lại y hệt những gì của quá khứ[119]. Nền tảng của trung thành là tác
động của Thần Khí Chúa, nguồn mạch của tình yêu chứ không phải làm đúng theo những
gì luật định.[120]
Vì thế tu huynh phải canh tân không ngừng, luôn tiến
lên, chứ không ngồi yên trong tình trạng mà mình nghĩ đã là lý tưởng[121]. Thậm chí có lúc chúng ta nhìn lại
quá khứ qua cặp mắt kiếng màu hồng, giống như dân Israel tiếc nuối nồi thịt bên
Ai Cập[122].
Thách đố của canh tân chính là tính phiêu lưu của
nó. Ngay cả các đấng sáng lập dòng cũng chỉ là những người hành trình “đi ngang
đi dọc kiểu Abraham”[123] hơn là theo dự tính khôn ngoan của
các ngài.
Vì thế tu huynh cần có lòng trông cậy vô bờ vào
Thiên Chúa. Tương lai của đời tu huynh là nằm trong tay Thiên Chúa chứ không phải
trong tay chúng ta, con người chỉ là cộng tác viên vào công trình cứu rỗi của
Ngài. Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta hiệp sức với Ngài để xây dựng một tương
lai mới[124].
Cộng đoàn cũng như cá nhân sẽ già cỗi và chết đi,
nếu để các tập tục cổ truyền đè bẹp ý chí cải tiến, cải tiến nhưng trung thành
với sáng kiến thuở ban đầu và nhu cầu của đời sống hiện nay. Số mệnh của dòng,
cuối cùng nằm trong tay của các tu huynh. Tu huynh không được ở trong tình trạng
chờ đợi các vị hữu trách, đợi những giải pháp chế tạo sẵn cho những khó khăn mới
do thế giới tiến bộ hiện đại đặt ra. Trái lại, mỗi người, trước mặt Chúa phải dấn
thân vào con đường cải tạo đời sống thiêng liêng của mình và tận tình tham gia
vào đại cuộc chung là “canh tân thích nghi”. Với giá này chúng ta mới thắng được
hiểm hoạ của sự chây lì, dòng sẽ mãi mãi sống mùa xuân mới[125].
Tắt một lời, ngành tu huynh cần phải thay đổi và
thích nghi để tồn tại và phát triển, nhưng không phải bất cứ thay đổi nào cũng
là tốt mà cần phải thay đổi đúng.
3.4. Khuynh Hướng Giáo
Sĩ Hoá
Một số dòng tu huynh muốn một vài anh em làm linh
mục để đáp ứng nhu cầu mục vụ trong nhà dòng. Ngoài ra, việc này còn giúp nâng
cao uy thế của dòng mình. Linh mục sẽ có tiếng nói mạnh hơn đối với Giáo hội địa
phương cũng như trung ương.
Cũng có thể một số dòng giáo dân nam muốn thoát ra
khỏi sự kềm toả của hàng giáo sĩ. “Đau khổ vì quyền bính gông cùm phần nào ngăn
trở sự phát triển của con người”[126].
Thế nhưng một thực tế không thể chối cãi là một số
nam tu sĩ đang tìm kiếm và cố gắng đạt được những giá trị trần thế trong đời
tu: danh vọng, địa vị, quyền lực, vật chất...
Trong một cuộc thăm dò ý kiến ngày 18/11/2003 tại
học viện thần học Lasan Mai Thôn, 30% tu sĩ
trả lời sẽ làm linh mục nếu có thể. Nghĩa là mặc dù bản thân các tu sĩ ấy
đang là tu huynh, nhưng họ không bằng lòng với ơn gọi của mình. Các tu sĩ ấy do
làm linh mục không thành nên đành phải làm tu huynh, nghĩa là “tu huynh bất đắc
dĩ”. Có tới 60% tu sĩ sẽ hướng dẫn các bạn nam trẻ theo ơn gọi linh mục, mặc
dù bản thân đang là tu huynh!
Chức linh mục trong các dòng tu có tu sĩ giáo dân,
nếu nhìn từ bên ngoài thì đó là một sự thành đạt, vinh dự và “bề thế” của nhà
dòng. Tuy nhiên đối với anh em trong dòng thì có thể đó là một thách đố dai dẳng.
Chúng ta có thể thấy sự biến đổi nhanh chóng đến mức
khó ngờ của nhiều anh em khi được thụ phong phó tế hoặc linh mục. Mới hôm qua,
người anh em ấy dễ thương bao nhiêu, thì hôm nay trở thành giáo sĩ, anh lại ra
oai quyền lực với anh em mình bấy nhiêu, thậm chí còn tệ hại hơn cả các vị giáo
sĩ lâu năm. Hôm qua anh còn tham gia quét nhà, rửa chén thì hôm nay, anh đã mặc
nhiên rời bỏ những công việc đầy tình huynh đệ ấy. Hôm qua anh còn sống khó
nghèo như mọi người, hôm nay anh đã dự định sắm các vật dụng có giá trị cao và
lên dự chi cho những khoản tiêu xài. Anh được nâng lên hàng giáo sĩ và cũng tự
tách mình ra khỏi mối dây huynh đệ với anh em. Tệ hơn, anh dùng quyền lực để áp
chế anh em, bắt buộc anh em giữ khuôn phép trong khi anh tự cho mình nhiều đặc
quyền đặc lợi và nhiều khoản miễn trừ với những lý do vô cùng hợp lý. Ít có ai
dám ngỏ lời góp ý với anh vì anh đã trở thành người “ở trên” và nếu có góp ý
hay phê bình thì anh cũng ít khi đón nhận. Khoảng cách giữa anh và những anh em
còn lại ngày càng lớn. Anh em xa lánh anh, coi anh như một người thuộc giai cấp
khác và chính anh cũng tự cô lập mình.
Công đồng Vatican II nói rằng không có gì trở ngại
nếu có một vài tu huynh lãnh nhận chức thánh để đáp ứng những nhu cầu trong cộng
đoàn, nhưng vẫn phải duy trì tính chất giáo dân của mình[127]. Hơn nữa, Đức Gioan Phaolô II nhắc
nhở rằng công đồng “không minh nhiên khuyến khích theo chiều hướng này, nhất là
bởi vì công đồng ước muốn các dòng tu huynh cứ trung thành với sứ mạng và ơn gọi
của họ”[128]. Trong các dòng tu huynh, căn
tính tu huynh phải là cội rễ của hội dòng. Tuy các dòng có linh mục đã đề phòng
nhiều, nhưng hiện tượng giáo sĩ hoá đã làm họ hối tiếc[129].
Để hạn chế tình trạng nêu trên, các dòng cần trở về
với mục đích ban đầu của chức linh mục trong dòng, như công đồng Vatican II đòi
hỏi. Các ứng viên thánh chức phải được giáo dục và lựa chọn cách kỹ lưỡng và
sáng suốt. Không những phải nhấn mạnh rằng “dòng chỉ có một đẳng cấp”[130] mà chúng ta còn phải thực hiện đầy
đủ tinh thần ấy. Nên có các biện pháp chế tài và đấu tranh cần thiết.
3.5. Tu Huynh Trong Nhãn Quan Trần Thế
3.5.1. Bản Thân Các Tu Huynh
Theo Niên Giám Toà Thánh năm 2003,
tổng số người trên thế giới dâng hiến cuộc đời cho công tác mục vụ là
4,217,572. Số này được chia ra như sau:
-4,605 Giám Mục
-405,058 Linh Mục
-30,097 Phó Tế vĩnh viễn
-54,828 Tu sĩ (không phải là linh mục.)
-782,932 Nữ Tu
-28,766 Tu Hội đời
-143,745 Giáo dân truyền giáo
-2,767,451 Giáo lý viên.[131]
Do số lượng ít ỏi như thế, anh em thường cảm thấy lép vế, thiếu chỗ dựa cần thiết
của những người đồng cảnh ngộ.
Mặt khác, vì địa vị thấp kém, bị những anh em giáo sĩ và cả giáo dân coi thường, vai trò lép vế, tu huynh dễ tủi thân và cảm thấy thiệt thòi. Để tìm cách bù trừ, anh em tu
huynh cố đạt những thành công ngoài đời như bằng cấp, kiến thức, kỹ thuật, nghệ
thuật và công tác xã hội để có thế đứng, có danh xưng ngang hàng hay vượt hẳn
ngành linh mục.[132] “Nếu
không như thế thì làm sao mà sống nổi và ngành tu huynh của hội dòng làm sao tồn
tại và vươn lên?”[133]
Hậu quả là những tu huynh lớn tuổi “lấy làm lạ khi thấy một anh em trẻ chọn ơn
gọi tu huynh vì cho rằng đã qua rồi cái thời chọn ơn gọi này. Nói chung là họ
ít khích lệ anh em trẻ trong lãnh vực nói trên.”[134]
Cũng phải đề cập đến một thực tế là một số tu
huynh, vì một số lý do nào đó, đã không đủ khả năng đi theo ngành linh mục được.
Ví dụ: học lực kém, quá tuổi vào chủng viện, không còn chỉ tiêu trong chủng viện…
Điều này dẫn đến mặc cảm tự ti cho chính mình và sự coi khinh của mọi người.
Mọi vấn đề đối với ơn gọi tu huynh dường như đều
do não trạng về thế đứng của họ trong giáo hội và xã hội, cũng như do thái độ
phân biệt đối xử. Vì thế mà các vị lãnh đạo ít quan tâm; nhiều linh mục và giáo
dân coi thường; thân nhân của tu huynh đa phần không muốn cho họ theo đuổi ơn gọi
này mặc dù phù hợp với bản thân mình và sinh ích lợi cho mọi người. Thế nên các
tu huynh gặp rất nhiều thử thách trong đời tu. Đã có nhiều trường hợp đương sự
rời bỏ ơn gọi của mình thật là đáng tiếc.
3.5.2. Tu Huynh Và Giáo Sĩ
Quan hệ giữa giáo sĩ và tu huynh trong những dòng
giáo dân thuộc quyền Giáo Hoàng như Lasan, Gioan Thiên Chúa… tương đối ít vì
các anh em hoạt động độc lập trong những lãnh vực chuyên môn riêng biệt, và dù
có đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là cộng tác với hàng giáo phẩm địa phương.
Còn những dòng có cơ cấu hỗn hợp như Ngôi Lời,
Chúa Cứu Thế, Đa Minh… thực tế không phải là dòng hỗn hợp được giáo hội chuẩn
nhận, mà chính là “hội dòng được đặt dưới sự điều khiển của giáo sĩ, đảm nhận
việc thi hành chức thánh, và được giáo hội nhìn nhận như vậy.”[135] Cho đến nay, toà thánh Vatican
chưa chấp nhận sự tồn tại của các dòng giáo sĩ - giáo dân.[136] Vậy có thể hiểu giáo hội mặc
nhiên xem tu huynh trong các dòng này là trợ sĩ (phụ giúp cho các giáo sĩ).
Thực tế đã xảy ra đúng như vậy. Tu huynh Huỳnh Công Du, SVD cho biết: “Mối liên
hệ giữa anh em linh mục và tu huynh trong dòng đôi lúc không được đẹp lắm.”[137]
Ở những dòng tu huynh thuộc quyền giáo phận tại Việt
Nam, tình hình xem ra khá bi đát. Cha Clément Lưu Minh Hoàng, dòng anh em
hèn mọn ông thánh Giuse trước đây kể lại:
Là tu sĩ, nhưng anh em tu huynh Giuse hoàn toàn bị lệ thuộc,
bị trói buộc và bị áp chế dưới quyền giáo sĩ của linh mục triều mà đa số không
mấy hiểu biết và không cần hiểu biết đời tu dòng. Đời sống tu huynh, vì thế, gặp
nhiều truân chuyên, căng thẳng, mâu thuẫn, bất an. Nhiều tu huynh, do đó, đã rũ
áo ra đi, hoặc chuyển sang một dòng giáo sĩ khác.[138]
Còn dòng Kitô Vua ở Cái Nhum cũng không sáng sủa
gì hơn. Vào giai đoạn 1884 – 1894, dòng Thầy Giảng, tiền thân của dòng Kitô Vua
ngày nay, sau một giai đoạn bị giải tán đã được phép Toà Giám Mục địa phận cho
tái lập dòng có cơ sở tại An Đức, cách Mỹ Tho 8 cây số. Ngày 18/08/1894, cơ sở
của dòng bị trưng dụng để các tiểu chủng sinh đến ở, “đánh dấu một giai đoạn đau
buồn cho hội dòng trong tình trạng phôi thai.”[139]
Tệ hại hơn, dòng đã rơi vào tình trạng:
Không một nguồn an ủi, không một sự săn sóc! Thêm vào đấy,
cử chỉ kinh thị và thái độ hách dịch của một ít người còn nặng đầu óc giai cấp,
khiến các phần tử bạc phúc vô cùng chán nản! Tổ chức cơ hồ như sụp đổ khi cha
V. C. Quinton định sai các tu sĩ tản về những xứ đạo để thi hành chức vụ mà thực
ra cha muốn cho họ hồi tục.[140]
Thực ra cũng có nhiều vị quan tâm giúp đỡ, nhưng
tình hình gần như kiệt quệ của dòng Kitô Vua cho đến nay một phần nhiều là do sự
thiếu quan tâm, thậm chí là cản trở của hàng giáo sĩ địa phương.
Hai dòng tu huynh khác thuộc quyền giáo phận ở Việt
Nam là dòng Thánh Tâm Huế và dòng Thánh Gia, nói chung cũng phải chịu rất nhiều
ấm ức.
3.5.3. Tu Huynh
Và Giáo Dân
Sau đây là những câu mà các tu huynh thường được
nghe từ phía thân tộc, bà con láng giềng, bạn bè:
- Đi tu mà không làm cha thì đi tu
làm chó gì!
- Ông cha P. ổng nói là nếu ổng mà
không được làm cha thì ổng chả thèm đi tu đâu!
- Sao mày không làm cha mà lại làm
thầy, hả?
- Dòng của mày có được làm cha
không?
- Mày làm thầy để mày dễ ra phải
không?
- Mày tưởng mày đi tu là tu cho
mình mày đấy hả?
- Chừng nào thì làm cha hả ông thầy?
- Mấy năm nữa nhớ về đây làm lễ mở
tay nhá!
- Không biết nó có “bị” gì không
mà nó đi tu huynh nhỉ?
- Tao thấy ổng cũng khá lắm chứ mà
sao ổng không làm cha nhỉ?
- Nhìn cái tướng của nó là biết
làm cha không được rồi!
- Đàn ông làm cha, đàn bà làm xơ.
Làm thầy làm cái gì!
- Chú thím thương con như con ruột
vậy đó. Nếu con muốn lấy vợ thì chú thím cũng lo cho con hết!
- Con trai em mà đi tu thì nó phải
làm cha cơ, chứ như anh thì…
- Thế mai mốt anh muốn đổi lại làm
cha thì có đổi được không?
- Làm thầy á hả? Chán lắm! Em thấy
mấy ông thầy sớm muộn gì cũng ra hết à! Tu không nổi đâu!
- Không! Em làm cha cơ! Cứ dang
tay ra là có tiền!
- Ổng mới làm thầy thì ổng làm gì
có tiền mà lì xì!
- Thế, tu huynh là gì hả chú?
Ở Việt Nam, Linh mục là người có quyền hành, đứng
trên, cai quản nhiều người, có tiếng nói mạnh hơn những anh em tu huynh. Đó là
do chúng ta chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến: coi trọng người có địa vị. Một
người làm quan cả họ được nhờ. Đó chính là não trạng “phò giáo sĩ” ở các
giáo hội địa phương, và ngay cả trong các hội dòng. Do đó, hầu hết các bạn trẻ
có tư tưởng là một giáo sĩ thì “hoàn hảo” hơn và bảo đảm hơn về căn tính, tác vụ,
địa vị trong Giáo hội và xã hội.[142]
Còn tu huynh Alfonso Berger, SVD cho rằng thách đố
lớn nhất là đa số tín hữu không hay biết gì về ơn gọi tu huynh. Sự thật
là người ta không dễ “nhìn ra” các tu huynh như các cha hay các xơ. Nhiều khi
người ta lầm lẫn tu huynh với các thành viên của những tổ chức giáo dân dấn
thân khác, ví dụ như các tu hội đời, các cộng đoàn có đặc sủng riêng, đặc biệt
là những nhóm sử dụng những chức danh na ná tu huynh (các thầy ở tu hội đời chẳng
hạn). Tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách tích cực hơn, các nhóm kể trên sẽ có thể
giúp chúng ta tái khám phá những yếu tố cốt yếu trong đời tận hiến của chúng ta
cũng như giúp giáo hội hiểu rõ hơn về ơn gọi tu huynh[143].
Hơn nữa, các tu huynh bị đóng khung trong công việc
“nội vụ” (bảo trì nhà cửa, quản lý, học hội, in ấn, xuất bản, đào tạo…)[144].
Mặc dù các tu huynh đang làm việc rất tốt, nhưng phần đông dân chúng không biết
đến họ, trừ những người có tham dự các lễ của tu huynh (ví dụ như lễ khấn) hoặc
có liên hệ với họ. Các tín hữu ít có cơ hội để chứng kiến sự dấn thân của tu
huynh đã đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của con người hôm nay.[145]
Người ta còn đánh giá thấp tu huynh. Chẳng hạn, những
người chọn tu huynh bị cho là đầu óc kém phát triển, ít hiểu biết và thiếu khả
năng... Vì vậy, hầu như các gia đình ít đồng ý cho con mình chọn ơn gọi tu
huynh dù con cái mình có khuynh hướng đó. Vì sợ gia đình buồn nên đương sự phải
miễn cưỡng chọn làm linh mục để khỏi phụ lòng cha mẹ và đó cũng là cách báo hiếu
đối với cha mẹ.[146]
Do đó, trước khi một ứng sinh vào tập viện dòng Lasan, các sư huynh có trách
nhiệm phải “làm công tác tư tưởng” cho anh ta. Nếu ứng sinh ấy quyết tâm theo ơn
gọi sư huynh, và quan trọng hơn: nếu gia đình đồng ý, anh mới có thể bình an
vào tập viện.[147]
Người ta cũng cho rằng công việc của các tu huynh
thì giáo dân cũng làm được.[148] Thậm chí giáo dân còn có thể làm
tốt hơn nữa. Bằng chứng là sự hiện hữu của nhiều tổ chức từ thiện trong nước và
quốc tế. Vậy ơn gọi tu huynh còn cần thiết nữa không? Chương IV của luận văn
này sẽ có lời giải đáp cho các vấn nạn nêu trên.
3.5.4. Tu Huynh Và Các Giới Tu Sĩ Khác
Một điều đáng tiếc là tu huynh bị chính các tu sĩ
khác phân biệt đối xử. Chúng ta hãy theo dõi những mẩu chuyện sau:
Một thầy dòng thánh Gioan Thiên Chúa đến một nữ tu viện để
đưa thuốc chữa bệnh. Có lẽ tướng tá của thầy không giống một ông cha cho lắm
nên vị nữ tu ra đón thầy buột miệng hỏi: “Tu hội hử? Chờ một lát.” Rồi xơ đi
vào, để mặc ông thầy đứng ngoài trời giữa buổi trưa nắng như thiêu như đốt. “Một
lát” ấy kéo dài đến mười lăm phút. Thầy chờ không nổi, bèn để đại số thuốc trên
ghế đá và quay về.
Một linh mục trẻ và một thầy lớn tuổi đến thăm và ở lại
nhà dòng. Vị linh mục được bố trí ở phòng máy lạnh, đầy đủ tiện nghi ở tầng trệt
trong khi ông thầy kia phải lê tấm thân già lên tận lầu ba![149]
Thầy nọ nói với một tu huynh: “Thầy xuống ngồi dưới ghế
kia kìa! Chỗ này là dành cho các cha!
Tại một bữa tiệc, vị linh mục bảo tu huynh: “Sao mày lại
rửa tay vào đó! Thau nước trà đó để cho các cha chứ![150]
Nhiều tu huynh cảm thấy mình thiếu thốn cái gì, chỉ
như là “tu sĩ hạng B”. Đôi khi họ bị đối xử thua các nữ tu nữa. Có điều chắc là
các nữ tu không mang mặc cảm mình chỉ là tu sĩ nửa vời!
Còn gì đáng buồn hơn khi bị chính những người đáng
lẽ phải hiểu mình nhất lại có cách hành xử phũ phàng như vậy. Trên đây mới chỉ
là một vài mẩu chuyện “rất nhỏ”.
Chính vì những cách hiểu và đối xử chưa đúng với ơn
gọi đặc thù này, con số tu huynh có nguy cơ ngày càng giảm.
3.6. Cởi Mở Tấm
Lòng Với Giáo Dân
Giáo hội là dân Thiên Chúa, cho nên mọi thành viên
đều có cùng “một Thiên Chúa một đức tin và một phép rửa”[151].
Ngày nay, vị trí và vai trò của giáo dân ngày càng trở nên quan trọng. Thách đố
đặt ra cho tu huynh ngày nay là làm sao hoà mình với họ trong công cuộc xây dựng
nước Thiên Chúa nơi trần gian.
Đời sống của người giáo dân diễn tả “tính giáo dân”
riêng của họ. Chứng tá của người giáo dân nhắc lại cho người tu sĩ rằng việc
thánh hiến tu dòng không được để người tu sĩ lãnh đạm, đối với công trình cứu rỗi
thế gian, cũng như đối với tiến bộ nhân loại[152]. Tuy nhiên truyền thống của loài
người, đặc biệt ở đông phương, thường coi trọng những người tu hành. Vì thế,
nhiều tu huynh cũng tự xếp mình ở trên bậc sống bình thường mà lãng quên đi chiều
kích huynh đệ của hai bậc sống rất gần gũi nhau này.
Nếu một thách đố của tu huynh là bị ràng buộc
trong cơ cấu phẩm trật của Giáo hội, thì đến lượt mình, tu huynh cũng cần tự
nguyện giải phóng những khúc mắc ấy trong mối tương quan với giáo dân. Tu huynh
“là anh em với bất cứ ai”[153], vậy tu huynh có sẵn lòng làm
anh em với giáo dân không?
Sự thăng tiến của bậc giáo dân ngày nay cần được
nhìn nhận là một mối lợi cho ngành tu huynh. Vì thế, tu huynh sẽ có thái độ cởi
mở lòng ra để đón nhận, lắng nghe, hơn là làm thầy dạy[154]. Nhờ đó, đặc sủng và sứ vụ của
dòng sẽ được phong phú thêm, gánh nặng được giảm bớt và hoạt động tông đồ sẽ hiệu
quả hơn.
Chương IV:
THÊM MỘT VÀI Ý TƯỞNG ĐỀ NGHỊ
4.1. Bản Thân Các Tu Huynh
Các tu huynh cần nhận thức được ơn gọi của mình
qua đời sống nội tâm và rèn luyện nhân bản. Các tu huynh cần hoàn tất một chương
trình giáo dục về thần học và truyền giáo học căn bản thích hợp, để đào sâu ơn
gọi của mình và có đủ khả năng làm việc trong các lãnh vực huấn giáo và mục vụ.[155]
Nhờ có hiểu biết vững vàng như vậy, tu huynh xác định
hành động đáp trả ơn gọi của mình không phải là “tìm kiếm cái nào hơn, cái nào
kém thua, cái mình thích hay có tương lai... nhưng là mở mắt, mở lòng, mở con
tim trong đêm tối để mày mò lần bước đi.”[156]
Tu huynh biết rằng mình cũng như tất cả mọi người được mời gọi nên thánh như
cha trên trời[157], yêu mến thật lòng bằng
sự trọn hảo của đức ái. Tu huynh nhận ra rằng mình chọn đời sống khó nghèo, “nghèo
thật tình và tự ý, không hẳn vì khước từ, hy sinh mà đúng hơn là một sự chia sẻ,
một tiếp cận bác ái và huynh đệ.”[158]
Con đường tu huynh có thể chật hẹp hơn[159],
nhưng vô cùng cao quý vì “họ hiến mình cách thân ái hơn cho công cuộc phục vụ Đấng
Tối Cao.”[160] Tình yêu mến ấy có thể
như câu chuyện sau:
Trong một tu viện nọ
có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì
người ngỏ ý:
-Xin anh em đem cho
tôi chìa khoá để vào Thiên Đàng.
Nghe vậy, một anh
em chạy đi lấy Kinh Thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác
trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng mân côi. Nhưng
tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em
kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh
em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vưa
trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi chồm
dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi
nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu giữ mãi trên môi.[161]
Vậy cứu cánh ấy chính là việc mưu cầu hạnh phúc
không những cho mình mà còn cho cả nhân loại. Đâu phải vì hạnh phúc cá nhân mà
Chúa Giêsu chịu chết tang thương trên Thập Giá? Chúng ta có thể rút ra bài học
về biến đổi cái tôi tự nhiên của một con người qua cuộc khổ nạn của Ngài[162].
Đối với mọi người, mặc dù có gặp khó khăn trong mối
tương quan thì đối thoại trong tình thương mến và với tinh thần cộng tác là ưu
tiên số một. Trong thời đại mà người ta đề cao đối thoại liên tôn, đối thoại giữa
các nền văn hoá v.v. thì tại sao tu huynh không đối thoại trên mọi lãnh vực, mọi
phương tiện để ai cũng hiểu về ơn gọi của mình? Bằng đối thoại và sống hoà điệu,
chúng ta sẽ gặt hái được sự cảm thông và chia sẻ.
4.2. Đối Thoại Với Giáo Dân
Anh em tu huynh phải đối diện với thách đố thường
xuyên từ phía giáo dân. Chúng ta thật lúng túng khi phải trả lời các câu hỏi
liên quan đến bậc sống của mình do họ đặt ra. Có lẽ tu huynh nên đặt vấn đề một
cách thẳng thắn với họ: Tại sao quý vị trọng ơn gọi giáo sĩ hơn tu huynh? Phải
chăng chỉ vì ơn gọi tu huynh ít mang lại danh dự và quyền lợi cho
quý vị, là những thân nhân của anh em tu huynh? Quý vị cần biết rằng trong thời
đại văn minh tiến bộ ngày nay, những thành phần bị coi là thấp kém hơn trong xã
hội đang dần dần lấy lại thế đứng của mình: các chủng tộc da màu, các dân tộc
thuộc thế giới thứ ba, giới phụ nữ, trẻ em... các tu huynh cũng đang phục hồi vị
trí của mình như thời Giáo Hội sơ khai và rất được sự ủng hộ của những người
thiện chí trong Giáo Hội. Vả lại, dù vị trí của tu huynh có thấp hơn, thì anh
em tu huynh cũng muốn trở nên nhỏ bé để bước vào cửa hẹp[163],
chứ không muốn làm con lạc đà chui qua lỗ kim.[164]
Não trạng của quý vị hiện nay là do ảnh hưởng của những tàn tích của các chế độ
đã qua, thời mà dân chủ và bình đẳng chỉ là những khái niệm vô cùng xa lạ. Thế
nhưng mọi sự đang biến đổi một cách mau lẹ. Ví dụ ở một số trường đại học và
các học viện bên Âu – Mỹ, không những tu sĩ mà cả giáo dân nữa cũng đang làm
giáo sư dạy các môn thần học, và học viên lại gồm rất nhiều giáo sĩ![165]
Hàng ngũ tu huynh đã đáp trả rất thuyết phục chủ trương rất thời thượng của
Giáo Hội: chứng nhân hơn thầy giảng. Nếu quý vị muốn tìm những chứng tá
của Đức Kitô nơi người anh em, xin cứ thử tìm kiếm nơi những tu huynh[166].
Bằng cách tiếp xúc thường xuyên hơn với người dân
qua công tác xã hội, hoạt động mục vụ hoặc các công việc chuyên môn khác, chúng
ta có thể đánh thức sự lôi cuốn của ơn gọi tu huynh đối với giới trẻ[167].
Sau đây là một số phương pháp:
- Tiếp xúc và chia sẻ với gia đình.
- Tiếp xúc với các phụ nữ và khuyến
khích họ cùng nói về ơn gọi tu huynh.
- Dùng phương tiện truyền thông nếu
được: chiếu phim, phát sóng tivi, đài, internet…[168]
- Tổ chức các buổi hội thảo về ơn
gọi tu huynh, các buổi sinh hoạt trại.
- Chia sẻ và nói chuyện về ơn gọi
tu huynh với giới trẻ trong các trường đại học.
Ngoài ra còn có thể có sáng kiến làm các tờ bướm,
lịch, sổ tay nói về ơn gọi và phát cho gia đình, các thanh niên...[169]
4.3. Đối Thoại Với Hàng Giáo Sĩ
Nếu việc kỳ thị và phân rẽ giai cấp giữa tu sĩ
linh mục và tu sĩ giáo dân là một phản chứng, đi ngược chủ trương của giáo hội
hôm nay thì mối đồng tâm nhất trí, hợp tác chân thành và bình đẳng huynh đệ giữa
tu sĩ linh mục và tu sĩ không linh mục trong cơ cấu hỗn hợp trở nên một chứng
tá xán lạn trong giáo hội dân Chúa[170].
Thể hiện tình huynh đệ ấy trước hết cần sự đối xử
bình đẳng trong cuộc sống hàng ngày. Trong xưng hô với nhau, các thành viên dòng
Marianiste tránh gọi tu sĩ trong dòng là CHA (Père) hoặc THẦY (Frère) mà gọi
chung là ÔNG (Monsieur). Trong thời gian đầu, sau tu chính hiến pháp 1974, anh
em Giuse chọn danh xưng THẦY cho cả tu sĩ linh mục và không linh mục, đồng thời
cố tránh mọi thứ phân biệt đối xử trong nếp sống[171].
Kế đến là não trạng “giáo sĩ trị” trong giáo hội.
Việc thần thánh hoá hàng giáo sĩ là có thật và vẫn còn tồn tại cho tới ngày
nay. Chức linh mục được mặc nhiên coi là chức thánh, con người linh mục được mặc
nhiên coi là con người thánh[172]. Có điều gì sai lầm trong quan điểm
nói trên không? Thượng hội đồng giám mục tại Roma cuối năm 1993 vẫn còn lúng
túng trước định nghĩa về đời tu, và trước vị trí của người tu sĩ trong giáo hội.
Hình như trong giáo hội, người ta chỉ thấy rõ có hai “hạng” hay hai “bậc”: bậc
giáo sĩ và bậc giáo dân. Các tu sĩ, ai thuộc hàng linh mục thì thuộc hàng cờ-lê-ri-cô,
ai không là linh mục thì là… giáo dân. Amen. Chỉ có thế thôi, chứ không có cái
nửa nạc nửa mỡ! Phải chăng vì thế mà nhiều vị giám mục vẫn chỉ quan tâm đến
chuyện nắm được các tu sĩ thôi.[173] Sự phân biệt này, nếu hạn chế được,
sẽ góp phần phát triển tốt đẹp những tương quan trong giáo hội.
Nên tiếp cận và mời gọi các linh mục cộng tác
trong việc phát triển ngành tu huynh, tuy có vị linh mục không sẵn lòng cổ võ ơn
gọi tu huynh, thậm chí nhiều khi còn ngăn cản để hướng bạn trẻ theo ơn gọi linh
mục nữa. Điều này cũng dễ hiểu vì các vị ấy muốn có thêm nhiều người cho “phe
ta”. Đó là một khó khăn mà ngành tu huynh phải khéo léo giải quyết.
4.4. Đối Thoại Với Giáo Hội
Nhiều người, vì không biết rằng đời tận hiến tự bản
chất chẳng phải là giáo sĩ hay giáo dân, đã có cảm tưởng rằng ơn gọi làm tu
huynh còn thiếu sót bởi vì không có chức thánh. Chúng ta tái khẳng định rằng ơn
gọi của các tu sĩ không linh mục, dù là tu huynh đơn thuần hay trợ sĩ, có giá
trị và tầm quan trọng của nó, cũng như nó có tính cách hoàn hảo. Thực vậy, nó
diễn tả cách trọn vẹn sự tận hiến tu trì và chức tư tế phổ quát của các kitô hữu.
Các tác vụ mà họ thi hành đều thông dự vào sứ vụ của Giáo Hội phải truyền giảng
Phúc Âm cho thế giới.
Chúng ta ước mong rằng các tu sĩ không linh mục nhận
được sự huấn luyện toàn diện: nhân bản, thần học, mục vụ và nghề nghiệp... Các
tu huynh cần được tham gia vào công cuộc điều hành trong các Dòng có các giáo sĩ,
phù hợp với bản chất của mỗi Dòng. Các chức vụ cai quản trong Giáo Hội cũng như
trong các dòng tu sẽ được mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt. Từ xưa
đến nay, những anh em không có chức thánh sẽ không được trao phó các chức vụ điều
hành. “Rõ ràng là có hai giai cấp trong cộng đoàn: giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị!”[174]
Để củng cố phẩm giá và căn tính riêng của đời sống
tu trì bên nam giới, đề nghị Giáo Hội hãy công khai nhìn nhận sự bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tu sĩ giáo sĩ và không giáo sĩ , ngoại trừ những
gì phát xuất từ chức thánh[175].
4.5. Một Vài Ý Tưởng Về Đào Tạo Và Bổ Nhiệm Tu
Huynh
Sự phát triển của mỗi cá nhân bao gồm đời sống tâm
linh, nhân bản và chuyên môn. Tu huynh cần học tập và luôn tìm cách nâng cao những
chuyên môn để vui sống với anh em đồng hội đồng thuyền và làm việc hữu ích cho
giáo hội và xã hội. “Học nhiều để biết nhiều, biết nhiều để phục vụ nhiều, biết
chính xác để phục vụ đúng.” Đó là tiếng gọi cao cả của đời tu huynh.[176]
Thế nhưng do số lượng ít ỏi, tu huynh thường được đào
tạo về triết và thần học chung với anh em ứng sinh giáo sĩ. Việc này xem ra
không có lợi cho lắm. Ví dụ: một ứng sinh học ba năm triết chắc sẽ chọn con đường
trở thành linh mục hơn là tu huynh bởi vì trong ba năm ứng sinh này luôn học những
môn thuộc ngành linh mục, với số đông chủng sinh, với các cha giáo sư… Tại sao
anh ta lại không chuyển ngành được đào tạo “cách tự nhiên” khi anh đã hoàn
thành một nửa chương trình đào tạo linh mục? Nếu họ quyết định trở thành linh mục,
họ nên đi học triết, nhưng những người chọn con đường tu huynh phải học thần học
cơ bản, nếu có thể được, tại một học viện dành cho tu sĩ và giáo dân[177],
như học viện thần học Lasan Mai Thôn chẳng hạn.
Tuy nhiên, nên để các ứng sinh linh mục và tu
huynh sống chung với nhau với mục đích là hiểu nhau hơn, xoá đi những cách biệt.
Đó cũng là tinh thần quốc tế của dòng Ngôi Lời: đa chủng tộc, đa văn hoá, đa
thành phần.[178] Kinh nghiệm cho hay có thể có
chung chương trình giáo dục khác nhau trong khi vẫn sống chung trong cộng đoàn.
Nhưng nếu để các thiểu số ứng sinh tu huynh sống giữa số đông giáo sĩ thì căn
tính tu huynh khó bộc lộ. Vậy cần có một thời gian dành riêng để tu huynh ở với
nhau nhằm tìm ra, củng cố căn tính và vai trò riêng của mình. Cần có sự quân
bình về thời gian sống với giáo sĩ và sống riêng tu huynh với nhau[179].
Còn trong đời sống phục vụ tha nhân, tu huynh cần được
huấn luyện sao cho phù hợp với năng khiếu và đáp ứng nhu cầu của hội dòng. Đôi
khi chúng ta có thể thấy các tu huynh được đào tạo chuyên môn về lãnh vực truyền
thông lại làm công tác quản trị; những tu huynh khác được đào tạo về công tác
xã hội lại đi mục vụ hay làm công tác đào tạo, v.v. Trong tất cả các trường hợp
trên, các tu huynh đau khổ này không nên mất “liên lạc” với những người bên
ngoài hoặc duy trì quá lâu công việc chẳng liên quan gì đến chuyên môn của họ[180].
4.6. Với Các Bạn Trẻ
Bạn trẻ cần nhận ra, nếu có, những dấu chỉ ơn gọi
tu huynh của mình mà Chúa bày tỏ như khát vọng dấn thân cho đời tu huynh để làm
anh em với mọi người, yêu mến thờ phượng Thiên Chúa và phụng sự tha nhân trong
khiêm nhường, kín đáo, ước muốn từ bỏ danh lợi, niềm đam mê những chuyên môn,
v.v. Nếu đã dấn thân trong đời tu huynh, bạn cần phải xác tín, cương quyết đi
theo ơn gọi của mình, có ý thức về sứ vụ, nhận ra nhu cầu của con người[181].
Khuôn mặt của Đức Kitô có muôn vàn nét đẹp. Mỗi người
chúng ta dù trong đấng bậc nào cũng phải cố công mà vẽ lại những nét đẹp đó qua
cuộc sống và hoạt động của mình trong nhiệm cục cứu rỗi.[182]
KẾT LUẬN
Tóm lại, những
trắc trở đối với ơn gọi tu huynh chỉ là do những suy nghĩ và hành động mang đậm
tính chất con người. Khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa thật nhưng
đã mang thân phận con người thấp hèn để làm bạn đồng hành và là anh em với bất
kỳ người nào. Gương sáng của Đức Giêsu là như thế, lời dạy dỗ của Ngài là như
thế, tuy nhiên thực hành trọn vẹn giáo huấn ấy của Người còn cần một quá trình
rất dài.
Trong thời kỳ
sơ khai, các thành viên trong Giáo Hội sống huynh đệ, bình đẳng với nhau. Thế
nhưng cùng với sự phân hoá giai cấp và phân biệt giàu nghèo trong xã hội, Giáo
Hội chúng ta tiếc thay cũng không tránh được vấn nạn đó. Những anh em tu huynh
dần dần bị đẩy từ vai trò anh em với mọi tín hữu xuống làm người phụ trợ cho
các vị giáo sĩ. Những thiệt thòi mang tính thế tục ấy đã ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống tâm linh cũng như ơn gọi. Rất nhiều tu huynh đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng căn tính, không xác định được mình là ai, vai trò của mình là gì, do đó đã
rời bỏ hàng ngũ của mình để trở thành giáo sĩ hoặc trở về với ơn gọi giáo dân.
Để tránh
tình trạng trên, các tu huynh cần xác định rõ ơn gọi và căn tính của mình, để từ
đó củng cố ơn gọi của bản thân, tìm cách làm cho mọi thành phần trong Giáo Hội
hiểu được vai trò của “chi thể tu huynh” trong Nhiệm Thể của Chúa Kitô, từ đó
làm một tấm gương sáng về những chứng nhân của Người giữa thế gian. Nhờ đó, cuộc
sống của tu huynh sẽ có sức thuyết phục các bạn trẻ tiếp bước các bậc đàn anh
trong ơn gọi đặc biệt này.
THƯ MỤC
THAM KHẢO
ABULAD, R.M., SVD. Ngành Tu Huynh Trong Tinh Thần Của
Đấng Sáng Lập Arnold Janssen. (Chia sẻ tại đại hội I ngành tu huynh, miền
dòng Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại Nha Trang). 2002.
AMSTRONG, P., CSC. Who Is A Brother?. 2000.
ANON. Tin Trong Nhà. Chia Sẻ, số 5. Tháng
02/1995. tr. 99-100.
BARLAGE, H., SVD. Bước Theo Ngôi Lời 4. Roma:
SVD. 1992.
BÁO PÈLERIN. Tu Sĩ, Anh, Chị Là Ai? Bạch Tuyết,
dg. Tải xuống ngày 10/11/2005 từ trang http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/tailieu/tusi.htm
BERGER, A., SVD. Updating The SVD Brother Formation
Program. Rome: SVD. 2003.
BỘ TU SĨ. Những Yếu Tố Cốt Yếu Trong
Giáo Huấn Của Hội Thánh Về Đời Tu. 1983.
DIỆP TUẤN ĐỨC, FSC. Bài viết: Tại Sao Là Sư Huynh
(Sư Muội) Mà Không Là Cha Cố?. Mai Thôn: Signum Fidei. 2002.
DÒNG KITÔ VUA. Luật Chỉ Nam. Vĩnh Long: Dòng
Kitô Vua. 1971.
DÒNG KITÔ VUA. Tiểu Sử Tu Viện Kitô Vua. Vĩnh
Long: Dòng Kitô Vua. 1963.
DÒNG NGÔI LỜI. Hiến Pháp Dòng Ngôi Lời. Roma:
SVD. 2002.
GIOAN PHAOLÔ II. Catéchisme de L’Église Catholique.
Paris: Mame - Plon. 1992. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Ban Giáo Lý Giáo
phận Tp HCM, Dg. Tp HCM: Tp HCM.1997.
GIOAN PHAOLÔ II. Chiristifideles Laici. Roma.
1988. Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân. ĐCV Thánh Giuse, Dg. Tp HCM: ĐCV
Thánh Giuse. 1999.
GIOAN PHAOLÔ II Codex Iuris Canonici.
Roma. 1983. Phan Tấn Thành & tgk, Dg. Bộ Giáo Luật. Roma: Nguyệt San
Trái Tim Đức Mẹ. 1985.
GIOAN PHAOLÔ II. Redemptionis Donum.
Tông Thư Hồng Ân Cứu Chuộc.1978.
GIOAN PHAOLÔ II. Vita Consecrata. Tông Huấn Đời Sống
Thánh Hiến. 1996.
HARMER, M.C. Traduction de Religious Life in the
21st Century. USA: Bellarmin.
1997. Jos. R’Chao, OP, Dg. Đời
Tu Trong Thế Kỷ XXI. Tp
HCM: Signum Fidei Tu Thư. 2005.
HOLZEN, V. V., SVD. The SVD Brother Vocation Today.
Roma: Apud Collegium Verbi Divini. 1995.
HUỲNH CÔNG DU. Báo Cáo Tổng Quát Hội Nghị Về Ơn Gọi
Tu Huynh Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương. Cebu, Philippines. 27/05/2002.
LUISTRO A., FSC, The Religious Brother’s Vocation
As Abraham Parable Of Renewal For The Philippine Church.
LƯU MINH HOÀNG, SVD. Cảm Nghiệm Về Đời Sống Tu
Huynh. (Chia sẻ tại đại hội I ngành tu huynh, miền dòng Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại Nha Trang).
NGUYỄN CHÍNH KẾT, (5/2004). Hãy Cải Thiện Giáo Hội Địa
Phương Từ Gốc Chứ Đừng Từ Ngọn. Tải xuống ngày 06/05/2004 từ trang http://www.ykien.net/nchinhket07.html.
NGUYỄN LONG THAO. (2/2004). Niên Giám Toà Thánh. Tải xuống ngày 03/02/2004 từ trang http://www.vietcatholic.com.
NGUYỄN TY, SVD. Xác Định Ơn Gọi Và Vai Trò Tu Huynh
SVD. (Chia sẻ tại đại hội I ngành tu huynh, miền dòng
Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại Nha Trang).
NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ. Các Sách
Ngôn Sứ. Tp HCM: Tp HCM. 1996.
NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ. Kinh Thánh
Trọn Bộ. Tp HCM: Tp HCM. 1996.
OMER, B., FDM. Frère dans les Instituts Religieux
Laðcs. Rome: USG. 1991. Lu-y Minh, FSC, dg. Sư huynh trong các dòng tu
giáo dân. TP HCM: Uỷ ban đoàn kết công giáo. 1992.
PHAN TẤN THÀNH, OP. Bậc Trợ Sĩ. Đào Trung Hiệu
(Eds.). CD Manaratha. Đa Minh Việt Nam: Tp HCM. 2001.
PHAN TẤN THÀNH, OP. Lược Đồ Các Bài Giảng Tuần Tĩnh
Tâm. Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Eds.). CD DaiChungVien. Tp HCM: Đa Minh Việt
Nam. 1995.
PHAN TẤN THÀNH, Về Nguồn, Tập
4: Thời Các Giáo Phụ - Giai Đoạn II, Canada: Chân Lý. 2000.
RAVIER, M. H., Dictionarium Latino – Annamiticum,
Tự Vị Latinh – Annam, Ninh Phú: Ex Typis Missionis Tunquini
Occidentalis, 1880.
SƯ HUYNH TRƯỜNG CÔNG GIÁO. Bản Tính Giáo Dân Của
Dòng. Tổng Công Hội Kỳ Thứ 39. 1966-1967.
SƯ HUYNH TRƯỜNG CÔNG GIÁO. Sư Huynh Trong Thế Giới
Ngày Nay. Tổng Công Hội Kỳ Thứ 39. 1966-1967.
TRẦN AN PHONG, FSC. (9/1998). Chìa Khoá Thiên Đàng. Tải xuống
ngày 28/01/2004 từ trang www.nguoitinhuu.com/tamlinh/taberd/heavenkey.html.
VATICAN II. (Eds). Apostolicam Actuositatem. Thánh
Công Đồng Chung Vatican II. Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân. 1965. GHHV
Thánh Piô X – Đàlạt, Dg.1969.
VATICAN II. (Eds). Chirstus Dominus. Thánh
Công Đồng Chung Vatican II. Sắc Lệnh Về Chức Vụ Giám Mục. 1965. GHHV
Thánh Piô X – Đàlạt, Dg.1969.
VATICAN II. (Eds). Lumen Gentium. Thánh Công
Đồng Chung Vatican II. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội. 1965. GHHV Thánh
Piô X – Đàlạt, Dg.1969.
VATICAN II. (Eds). Pefectae Caritatis. Thánh
Công Đồng Chung Vatican II. Sắc lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Tu.
1965. GHHV Thánh Piô X – Đàlạt, Dg. 1969.
[2] x. OMER, B., FDM, Frère dans les
Instituts Religieux Laðcs. Rome: USG, 1991, Lu-y Minh, FSC, dg, Sư huynh
trong các dòng tu giáo dân, TP HCM: Uỷ ban đoàn kết công giáo, 1992, tr 5.
[8] x. PHAN TẤN THÀNH, OP, Bậc Trợ Sĩ, Đào
Trung Hiệu (Eds.), CD Manaratha, Đa Minh Việt Nam: Tp HCM, 2001.
[9] Nghĩa của các từ Latinh được tra cứu theo
RAVIER, M. H., Dictionarium Latino – Annamiticum, Tự Vị Latinh –
Annam, Ninh Phú: Ex Typis Missionis Tunquini Occidentalis, 1880.
[11] x. PHAN TẤN THÀNH, Về Nguồn, Tập 4: Thời Các Giáo
Phụ - Giai Đoạn II, Canada: Chân Lý, 2000, tr 536.
[51] BÁO PÈLERIN. Tu Sĩ, Anh, Chị Là Ai?
Bạch Tuyết, dg. Tải xuống ngày 10/11/2005 từ trang http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/tailieu/tusi.htm
[54] x. SƯ HUYNH TRƯỜNG CÔNG GIÁO, Bản Tính
Giáo Dân Của Dòng, Tổng Công Hội Kỳ Thứ 39, 1966-1967, tr 31.
[67] x. LUISTRO A., FSC, The Religious
Brother’s Vocation As Abraham Parable Of Renewal For The Philippine Church,
tr 27.
[83] NGUYỄN TY, SVD, Xác Định Ơn Gọi Và Vai
Trò Tu Huynh SVD, (Chia sẻ tại đại hội I ngành
tu huynh, miền dòng Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại Nha Trang).
[84] ABULAD, R.M., SVD, Ngành Tu Huynh Trong
Tinh Thần Của Đấng Sáng Lập Arnold Jansse, (Chia sẻ tại đại hội I ngành tu
huynh, miền dòng Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại Nha Trang),
2002.
[86] HUỲNH CÔNG DU, Báo Cáo Tổng Quát Hội Nghị
Về Ơn Gọi Tu Huynh Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương. Cebu, Philippines.
27/05/2002
[87] x. HOLZEN, V. V., SVD, The SVD Brother
Vocation Today, Roma: Apud Collegium Verbi Divini, 1995, tr 13.
[89] GIOAN PHAOLÔ II, Diễn từ ở đại hội toà
thánh về dòng tu và về các tu hội đời (22/01/1986), Trích lại của OMER, B.
& tgk, FDM, Sđd, tr 27.
[104] x. SƯ HUYNH TRƯỜNG CÔNG GIÁO, Sư Huynh
Trong Thế Giới Ngày Nay, Tổng Công Hội Kỳ Thứ 39, 1966-1967, tr 18.
[110] x. DIỆP TUẤN ĐỨC, FSC, Bài viết: Tại Sao
Là Sư Huynh (Sư Muội) Mà Không Là Cha Cố? Mai Thôn: Signum Fidei, 2002.
[122] x. HARMER, M.C., Traduction de Religious
Life in the 21st Century, USA: Bellarmin, 1997, Jos. R’Chao, OP, Dg., Đời Tu Trong Thế Kỷ XXI, Tp HCM: Signum Fidei Tu Thư, 2005, tr. 21; Xh 16,3.
[131] NGUYỄN LONG THAO, (2/2004), Niên Giám
Toà Thánh, Tải xuống ngày 03/02/2004 từ trang http://www.vietcatholic.com.
[138] LƯU MINH HOÀNG, SVD, Cảm Nghiệm Về Đời Sống
Tu Huynh, (Chia sẻ
tại đại hội I ngành tu huynh, miền dòng Ngôi Lời – Giuse Việt Nam ngày 20/08/2002 tại
Nha Trang).
[161] TRẦN AN PHONG, FSC, (9/1998), Chìa Khoá
Thiên Đàng, Tải xuống ngày 28/01/2004 từ trang www.nguoitinhuu.com/tamlinh/taberd/heavenkey.html.
[168] Hiện nay ngành tu huynh trên thế giới đã có
Website http://www.brothersonline.org bằng tiếng Anh.
[172] x. NGUYỄN CHÍNH KẾT, (5/2004), Hãy Cải
Thiện Giáo Hội Địa Phương Từ Gốc Chứ Đừng Từ Ngọn, Tải xuống ngày
06/05/2004 từ trang http://www.ykien.net/nchinhket07.html.
[174] PHAN TẤN THÀNH, OP, Lược Đồ Các Bài Giảng
Tuần Tĩnh Tâm, Đại Chủng Viện Thánh Giuse (Eds.), CD DaiChungVien, Tp HCM: Đa
Minh Việt Nam, 1995.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)